Thứ Bảy, 21 tháng 5, 2011

Chuyện hy hữu về người đàn ông bị cắt trí nhớ

Ngọc Báu – Tri Thức Trẻ/Medic
 
Hầu như tất cả chuyên gia tâm lý, các nhà thần kinh học và bác sĩ phẫu thuật thần kinh trên thế giới đều biết hai chữ viết tắt H.M. Đứng sau đó là bệnh nhân đã được nghiên cứu chi tiết và đầy đủ nhất lịch sử y học. Tuy nhiên từ những bài viết khoa học về nhân vật này rất khó khai thác thông tin gì ngoài sự mô tả máy móc sự kiện. Cũng may cuộc sống vẫn có những người đeo đuổi nỗ lực trả lại tầm vóc nhân văn của câu chuyện. Nhờ nó giới quan tâm có thể tái hiện số phận phi thường của một con người đã đóng vai trò đặc biệt quan trọng cho tiến bộ khoa học, song cũng là lý do cắn dứt lương tâm không ít bác sĩ.


Mãi sau khi qua đời cuối năm 2008, danh tính con người phi thường đó mới được tiết lộ. Ông là người Henry Gustav Molaison (H.M) sinh năm 1926 và cả cuộc đời đã sống ở Hartford, thành phố nhỏ gần Boston, bang Connecticut (Mỹ). Bố H.M là một thợ điện, dòng dõi gia đình địa chủ Pháp. Henry, ngươi con trai duy nhất lớn lên trở thành chàng trai lực lưỡng, dễ thương và hài hước. Như ghi chép trong hồ sơ lưu trữ thời học đường, H.M đạt điểm trên trung bình qua các trắc nghiệm chỉ số thông minh.

Bắt đầu từ một tai nạn nhỏ

Sau thế chiến II công việc làm ăn của gia đình H.M diễn ra tốt đẹp. Sau tốt nghiệp trung học, Henry tự kiếm sống bằng chân nhân viên bán vé cho rạp chiếu bóng, song khát vọng nối nghiệp cha đã đưa cậu trở thành thợ điện. Cả tuổi ấu thơ và thời niên thiếu của Henry tưởng chừng diễn ra êm đềm. Trừ sự cố duy nhất – năm lên bảy tuổi cậu bị một người phóng xe đạp bất ngờ tông vào. Henry bất tỉnh giây lát vì một vài vết thương trên đầu và vết rách trên mặt phải khâu 17 mũi.
s
Ảnh Henry Gustav Molaison chụp trước ca phẫu thuật không lâu

Có thể chính tai nạn đó đã trở thành nguyên nhân của những bất hạnh sau này. Lần đầu tiên Henry lên cơn động kinh năm 16 tuổi. Đúng lúc cậu đang lái xe hơi chở gia đình. Thoạt đầu ông bố cứ tưởng con trai nghịch dại, nhưng sau vài ba phút ông biết rằng, thực sự đã xảy ra chuyện bất ổn với con trai. Ông đưa con trai đến bệnh viện. Và từ thời điểm đó Henry không còn cơ hội nào ngồi bên tay lái.

Các cơn động kinh xuất hiện ngày càng dầy. Ở trường học, từ cậu bé được mọi người yêu thích, Henry đã trở nên bị bạn bè xa lánh. Vì sợ bất ngờ lên con động kinh, người ta đã không cho phép Henry lên bục danh dự nhận bằng tú tài trong ngày bế giảng. Henry đau khổ vì thời điểm đó đang thịnh hành thuyết ưu sinh – hệ tư tưởng chỉ cho phép những cá thể hoàn toàn khỏe mạnh sinh con đẻ cái. Vị bác sĩ địa phương nói thẳng với Henry: Anh phải tránh quan hệ tình dục và hãy quên đi chuyện hôn nhân, bởi anh có thể góp phần sinh ra nhiều đứa con bệnh hoạn như mình!

Henry chỉ có thể làm những việc đơn giản, trong đó có thời gian làm nhân viên một cửa hàng bán thảm chùi chân. 26 tuổi, Henry đã là con người bị tước bỏ mọi triển vọng. Không hiếm thời gian anh bị vài ba cơn động kinh mỗi ngày với vài chục giây bất tỉnh. Thời ấy không có loại thuốc nào khả dĩ cải thiện tình hình. Phẫu thuật não được coi là hy vọng cuối cùng.

Một bộ phận não bộ bị cắt bỏ

Bác sĩ phẫu thuật thần kinh William Scoville (Bệnh viện Hartford, khi ấy là một trong những cơ sở y tế lớn nhất tại Mỹ) đã quyết định thực hiện ca phẫu thuật mạo hiểm này. Bác sĩ Scoville cũng là dân thành phố Hartfod. Ông nổi tiếng ngang tàng, điển trai và đam mê xe thể thao tốc độ cao. Trong gara nhà ông lúc nào cũng có vài chiếc xe Jaguar sang trọng và đắt tiền. Thiên hướng ưa mạo hiểm bẩm sinh cũng thể hiện rõ nét trong thực tế hành nghề bác sĩ của ông. Trong sự nghiệp của mình ông đã thực hiện vài trăm ca khoan hộp sọ và trở thành nhân vật nổi tiếng thuộc lĩnh vực phẫu thuật não bộ - thời ấy được coi là phương pháp hiệu quả điều trị bệnh tâm thần phân liệt, bệnh trầm cảm và một số rối loạn tâm lý khác. Công việc phẫu thuật của bác sĩ Scotville cũng gắn liền với xác suất rủi ro cao. Riêng với trường hợp Henry, bản thân ông cũng thừa nhận là một thí nghiệm mạo hiểm, bởi ông sẽ phải cắt bỏ bộ phận não bộ khá lớn của bệnh nhân.

Bà mẹ Henry đã ký giấy đồng ý phẫu thuật. Bà đã do dự, nhưng cuối cùng đành phải chấp nhận. Không ai có đủ can đảm giúp bà trong quyết định đó. Ông chồng bà đã sụp đổ hoàn toàn.

Ngày 25/8/1953, bác sĩ Scotville đã dùng khoan mở hai lỗ trên hộp sọ đã được tiêm thuốc tê cục bộ, nhưng bệnh nhân vẫn hoàn toàn tỉnh táo. Tiếp theo, Scotville luồn dụng cụ vào sâu để cắt và lôi ra những mô não bộ. Trong những chi tiết bị cắt bỏ có hai vùng hải mã – những cấu trúc nhỏ có hình dáng giống con cá ngựa. Khi ấy người ta vẫn chưa biết vai trò của chúng.

Cuối ca phẫu thuật Scotville đã đặt vào não bộ Henry những mảnh kim loại nhỏ. Chỉ nhằm mục đích để đánh dấu những bộ phận nào đã bị cắt bỏ. Và cũng nhằm mục đích tạo điều kiện mô tả chính xác để áp dụng với những bệnh nhân khác khi ca phẫu thuật này thành công mỹ mãn.

Tiếc rằng ngay sau khi rời bỏ dụng cụ phẫu thuật, bác sĩ Scotville đã nhanh chóng nhận ra là có chuyện gì đó bất ổn. Bệnh nhân mất hẳn trí nhớ, Henry không thể nhớ, thí dụ, đi lối nào trở về phòng mình đang điều trị.
s
Vùng hải mã trong não bộ

Trở về nhà Scotville đã  kể chuyện với vợ: “Em có biết, hôm nay đã xảy ra chuyện gì? Anh đã chữa bệnh động kinh cho một người bằng cách cắt bỏ trí nhớ của anh ta. Một sự đánh đổi không tồi!” Dường như khi ấy ông ta không hề cảm thấy lương tâm bị cắn dứt. Trong hồ sơ bệnh án của Henry, Scotville ghi rõ: “Nhờ phẫu thuật tình trạng sức khỏe đã được cải thiện – số cơn động kinh giảm hẳn”. Sau này, vài ba tháng Henry mới bị một trận, song trí nhớ đã mất hẳn.

Chỉ nhớ những gì trước thời điểm phẫu thuật

Sau giai đoạn thăng hoa ban đầu, cùng với thời gian Scotville bắt đầu lo lắng về sức khỏe của Henry. Một ngày nọ ông đã gọi điện tham khảo ý kiến của bác sĩ Wilderr  Penfield ở  Montreal(Canada), người thời ấy được coi là một trong những chuyên gia phẫu thuật thần kinh và điều trị bệnh động kinh xuất sắc nhất thế giới. Nhà khoa học nổi tiếng Canada thực sự bàng hoàng khi biết chuyện đồng nghiệp Mỹ cắt bỏ nhiều não bộ của bệnh nhân như vậy. Đồng thời ông rất quan tâm đến những triệu chứng của Henry nên lập tức giao nhiệm vụ cho cộng sự của mình - nữ chuyên gia tâm lý học thần kinh Brenda Milner - trực tiếp tiếp cận bệnh nhân.

Ngay cuộc gặp mặt đầu tiên với Henry, bà Milner đã hết sức ngỡ ngàng. Bà đối diện với con người nhiệt tình, nghe, nhìn, cảm giác bình thường, có năng khiếu khôi hài và phản ứng nhanh nhạy bằng nụ cười hoặc thái độ bực tức. Chỉ số IQ của Henry vẫn không hề thay đổi.
Điều bất thường là năng lực nghi nhớ của Henry đã hoàn toàn biết mất. Anh chỉ nhớ được duy nhất những sự kiện xảy ra cho đến ngày 25/8/1953. Giống như dòng chảy thông tin vĩnh viễn dừng lại vào thời điểm đó.

Mọi thông tin mới đều bay khỏi đầu Henry sau vài chục giây. Henry không nhận ra những người anh mới trò chuyện cách đó vài ba phút, quên tất cả những gì mới làm và mới nói. Có thể đọc báo, tự gập lại, và sau đó vài phút lại có thể bắt đầu đọc lại như… chưa từng đọc. Việc nhìn ngày báo phát hành không giúp ích gì, bởi Henry không có khái niệm về giờ giấc, ngày tháng. Mỗi buổi sáng thức dậy anh đều không biết bản thân đang ở đâu, không thể tự mình tìm đường đến toa lét và trở về phòng ngay trong nhà mình. Anh có thể duy trì thông tin trong trí nhớ cho đến khi tự mình nhắc lại điều đó nhiều lần, song tất cả lập tức trôi tuột khỏi đầu ngay khi xuất hiện cái gì đó thu hút chú ý.

Bác sĩ Brenda Milner đã đọc kỹ mọi ghi chép về ca phẫu thuật. Không có gì nghi ngờ nữa, nhờ sự cố bất hạnh này mà Scotville đã có một khám phá phi thường: té ra vùng hải mã - địa bàn trước đó chưa ai biết chức năng của nó - đã đóng vai trò quyết định duy trì trí nhớ. Rõ ràng nhờ vùng hải mã, mọi dấu vết thông tin đã được ghi lại. Tại họa mà Henry vô tình gánh chịu đã trở thành bước ngoặt cho những nghiên cứu về cấu trúc phức tạp của trí nhớ con người.

Từ thời điểm cuộc viếng thăm đầu tiên của Brenda Milner, “sự nghiệp khoa học” kéo dài trên nửa thế kỷ của bệnh nhân nổi tiếng H.M. được bắt đầu. Bởi nhà khoa học Canada không thể thường xuyên đi lại giữa Montreal và Hartford, nên bà đã giao nhiệm vụ chăm sóc Henry cho nữ sinh viên của mình – bác sĩ Suzanne Corkin, khi ấy đang làm việc tại Massachusetts Institute of Techonology ở Boston. Vâng lời thầy, Corkin đã ở bên Henry và thực hiện đủ dạng trắc nghiệm cho đến ngày Henry trút hơi thở cuối cùng, năm 2008. Trong một bài giảng dành cho sinh viên, bác sĩ Corkin đã khẳng định, bệnh nhân H.M là “mỏ vàng khoa học”.

Theo lời kể của bác sĩ Corkin, cho dù đã được uống không ít biệt dược bổ dưỡng thần kinh, trí nhớ của Henry vẫn không được cải thiện, tệ hơn, những ký ức trước năm 1953 ngày càng phôi phai. Đồng thời thực tế cũng cho thấy: Ở mức độ rất thấp trí nhớ dài hạn của Henry vẫn hoạt động - chắc chắn nhờ việc bác sĩ Scotville đã vô tình bỏ sót một phần vùng hải mã trong khi phẫu thuật cắt bỏ.
Không nhận ra chính mình 

Henry ý thức được, thí dụ - sự kiện đã có vụ ám sát Tổng thống John Kennedy, song lại nói rằng, kẻ sát nhân đã bắn vào người khác - khi được yêu cầu kể lại diễn biến sự kiện. Đối tượng đã nhầm chi tiết đó với vụ mưu sát Tổng thống Franklin Roosevelt xảy ra trước đó hơn hai chục năm, khi Thống đốc Chicago đã thiệt mạng oan. Sự kiện này xảy ra năm 1933, chi tiết Henry đó có thể nhớ từ thời thơ ấu và đã vô tình kết nối với vụ ám sát Kennedy.
d
Khi con người bị "cắt" trí nhớ

Henry cũng thường xuyên theo dõi bộ phim truyền hình nhiều tập “MagnumP.1” và đã liên tưởng rằng, tên phim là tên thám tử. Thế nhưng anh không bao giờ có thể nhận ra bác sĩ Corkin. Khi Corkin hỏi anh rằng bà là ai, Henry hồn nhiên trả lời: “Có vẻ nhìn hơi quen” và “Chắc là bạn học thời phổ thông”(!).

Có lần Corkin đưa cho Henry xem bức ảnh mới chụp của mẹ anh, khi ấy đã rất già cùng Henry đứng bên cạnh. Anh nhận ra mẹ, song không nhận ra mình(!). Với câu hỏi, ai đấy, Henry trả lời, hẳn là bố của mẹ (?). Rõ ràng, Henry không thể nhớ được những thay đổi hình dạng của chính mình – anh chỉ nhớ gương mặt mình từ thời tuổi trẻ. Căn phòng, mà anh đã sống trong những năm 70 cùng với mẹ có dáng dấp như căn phòng từ những năm 40. Nghe những giai điệu sắc lẹm nhạc rock and roll, Henry vẫn tin đó là nhạc swing êm đềm. 

Thế nhưng các trắc nghiệm lại cho thấy, Henry có khả năng gom nhặt một số năng lực nhất định. Một trong số đó là bài tập vẽ lại những đường thẳng nối giữa các cạnh trùng nhau của ngôi sao nhỏ và ngôi sao lớn. Cho dù lần thứ hai giải lại cùng một bài tập, Henry quên hẳn trước đó đã làm thế nào. Những nghiên cứu này đã xác nhận thực tế: vẫn tồn tại cái gì đó như việc gom nhặt một cách vô thức những năng lực vốn xuất hiện theo cách khác so với sự ghi nhớ một cách có ý thực những sự kiện hay thông tin khác.

Trái lại, những giấc mơ của Henry dường như lại khẳng định rằng, qua giấc ngủ chúng ta lưu giữ những gì đã thâm nhập vào trí nhớ dài hạn của mình. Đánh thức Henry vào giữa đêm và hỏi anh trước đó giây lát đã mơ thấy gì. Câu trả lời lúc nào cũng là những hình ảnh liên quan đến những sự kiện từ thời trước phẫu thuật.

Lạc vào thời gian

Corkin nghiêm cấm người ngoài giới khoa học tiếp xúc với Henry. Nhà báo duy nhất may mắn tiếp xúc với bệnh nhân H.M nổi tiếng là Philip Hilts, phóng viên khoa học của nhật báo “Washington Post” và “ New York Times”. Lần đầu tiên tôi nghe một người quen nói về anh ta: Vì hậu quả một ca phẫu thuật, có bệnh nhân đã bị mất trí nhớ và buổi sáng thức dậy đều không biết đó là ngày nào, năm nào. Đã nhiều năm chỉ có một hộ lý chăm sóc, nhưng người phụ nữ này hôm nào cũng phải tự giới thiệu, mình là ai, bởi anh ta hoàn toàn không nhớ gì hết -  nhà báo Hilts kể lại.
d
Henry đã không nhận ra chính mình trong những bức ảnh như thế này

Thời gian ngắn sau đó Hilts lẻn vào hội trường Viện nghiên cứu Sức khỏe Quốc gia ở ngoại ô Washington để nghe bài thuyết trình của bác sĩ Corkin về hiện tượng H.M. - Ngay khi bác sĩ Corkin kết thúc bài giảng, tôi đã đến gần bà và hỏi về Henry. Bà lập tức bỏ đi. Thái độ bất thường của Corkin càng kích thích trí tò mò của tôi. Tôi biết, các nhà khoa học vẫn thường né tránh giới báo chí, bởi họ có mặc cảm, phần lớn nhà bào là những kẻ kiến thức hạn chế nhưng lại thích viết nhiều. Vậy nên tôi quyết tâm chứng tỏ với bác sĩ Corkin, tôi là nhà báo nghiêm túc và đứng  đắn. Tôi đã tìm đọc tất cả bài viết khoa học của bà và tất cả tài liệu liên quan đển chủ đề H.M. Đầu thập kỷ 90, khi tôi may mắn được nhận  học bổng của Boston, tôi đã chăm chỉ đi nghe tất cả bài giảng của bác sĩ Corkin cho sinh viên MIT. Nỗ lực chinh phục lòng tin của bà đã ngốn mất của tôi thời gian vài năm, song cuối cùng tôi đã đạt được mục đích. Đến một ngày bác sĩ Corkin bất ngờ tiết lộ với tôi rằng. Henry hiện đang có mặt tại MIT và bà có thể tổ chức cho tôi tiếp xúc - Hilts kể tiếp.

Ngay lần gặp mặt lần đầu tiên Hilts nhớ H.M là người đàn ông có thân hình lực lưỡng, gương mặt dễ mến đến mức ngây ngô và lúc nào cũng cảnh giác quan sát chung quanh. Henry liên tục cố gắng nắm bắt những chỉ dẫn nào đó khả dĩ cho phép định hướng, cho dù khái quát, tình huống thực tại. Trí tuệ của Henry không đổi, vậy nên anh ta tự xoay sở theo khả năng có thể - liệu những người này đến với mình vì mục đích đặc biệt, liệu mình đã biết họ, mình đang ở đâu, những câu hỏi của họ có ý gì?

Có thể sự liên tục thiếu hụt định hướng trong thời gian đã làm cho Henry đặc biệt thích thú trò chơi giải ô chữ. Đã biết nguyên tắc, Henry có thể định vị, chỗ nào không điền thêm từ. - Henry khao khát thả neo vào thời gian một cách vô vọng. Vì thế có lần tôi đã đưa Henry về ngôi nhà xưa và ngôi trường Henry từng học ngày còn bé. Henry đã tỏ ra hết sức sung sướng, bởi anh đã tìm thấy một nơi trên Trái đất này chứa đựng những đồ vật mà bản thân đã nhận ra – Hilts kể.

Cũng còn vấn đề khác với Henry: không thể thiết lập mối quan hệ thân mật với anh. Bởi làm sao có thề kết bạn khi mà cứ mỗi lần gặp tiếp theo lại nghĩ như mới gặp lần đầu? Bà mẹ Henry thật thà bộc bạch: Việc chăm sóc con trai hết sức mệt mỏi, bởi trẻ sơ sinh còn có cảm giác thời gian.

Kết cục buồn của thí nghiệm khoa học

Sau ngày bố mẹ qua đời, Henry cô độc hoàn toàn. Anh sống trong nhà dưỡng lão. Mỗi buổi sáng lại ngạc nhiên trước gương mặt nữ hộ lý “mới”. Corkin rất cũng quan tâm đến Henry. Henry tự ý thức đến mức độ nào về tình trạng sức khỏe của mình và có thể sống ra sao? Thỉnh thoảng anh thốt ra những câu chứng tỏ phong độ tồi tệ của mình: Tôi cảm thấy mình tự xoay sở kém hẳn mọi người; tôi thất vọng về mình và cảm thấy vô tích sự; tôi không nhìn thấy bất cứ tia hy vọng nào. 

Tuy nhiên không thể nói rằng Henry bị trầm cảm. Rất hiếm khi Henry tỏ ra hung hãn với mọi người hay bản thân. Chắc chắn những tình cảm tiêu cực cũng chớp nhoáng bay khỏi trí nhớ của Henry giống như tất cả thông tin khác. Và có thể bản tính tử tế bẩm sinh và câu nói nhắc lại như con vẹt rằng, bản thân cảm thấy sung sướng vì những nghiên cứu mà bản thân tham gia sẽ phát huy tác dụng tích cực với những người cùng cảnh ngộ đã cứu sống Henry.

Cũng không có cách nào chối bỏ câu hỏi về trách nhiệm của những bác sĩ, đặc biệt trách nhiệm của bác sĩ phẫu thuật William Scotville đối với số phận bi đát của Henry. Liệu thủ thuật đã được tiến hành với Henry có thực sự cân thiết? Liệu trước khi đặt mũi khoan vào hộp sọ bệnh nhân, Scotvelle có ý thức được những hậu quả việc làm của mình? Philip Hilts, nhà báo đã viết cuốn sách “Ghost’s Memory” về H.M (Hollywood đã mua bản quyền làm phim), chưa kịp tiến cận với bác sĩ Scotvelle và lắng nghe lý lẽ của ông, bởi bác sĩ này đã đột ngột tử nạn trong vụ va quẹt xe hơi vì chạy quá tốc độ vào năm 1982.

Henry qua đời ngày 2/12/2008. Với sự trợ giúp của thiết bị chiếu chụp hiện đại nhất các nhà khoa học Mỹ còn scan não bộ bệnh nhân suốt cả đêm sau đó. Bác sĩ Corkin quyết định, bộ não Henry sẽ được lấy ra khỏi hộp sọ và bảo quản toàn bộ dành cho những nghiên cứu tiếp theo. Vậy là “kho vàng” Henry không có cơ hội yên thân, thậm chí cả sau khi đã vĩnh viễn ra đi.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét