Vấn đề Việt Nam vốn phức tạp. Tình hình Việt Nam có thể được nhìn từ nhiều khiá cạnh với những lập trường khác nhau. Người thì cho rằng Việt Nam đã đạt nhiều tiến bộ về kinh tế từ 1986 đến nay, đồng thời cũng cởi mở cách cai trị khiến người dân được dễ thở hơn. Người khác lại nhận định rằng những tiến bộ tương đối về kinh tế và chính trị ở Việt Nam không thể đắp bù những tụt hậu trong tất cả mọi lãnh vực.
Tuy nhiên, có một sự thật không thể chối cãi, đa số người Việt ở trong và ngoài nước cũng như những nhà quan sát chính trị quốc tế, hay cả những du khách, thấy Việt Nam còn qúa nhiều thiếu sót cần phải cải thiện, thấy đất nước và dân tộc Việt Nam còn có nhiều tiềm năng để phát triển hơn tình trạng hiện tại, nếu những người cai trị dám trực diện với những vấn đề, có thiện chí và quyết tâm giải quyết.
Bài nhận định sẽ gồm có ba phần:
1 – Thực trạng của đất nước
2 – Những hậu qủa ảnh hưởng tới xã hội và tâm thức của cộng đồng dân tộc
3 – Những điểm hẹn không thể vắng mặt trong một tương lai gần.
I – THỰC TRẠNG CỦA ĐẤT NƯỚC Nếu kể những điều tích cực đang xảy ra tại Việt Nam, chúng ta có thể kể trong vài phút. Nhưng nếu nói tới những điều tiêu cực, chúng ta có thể nói cả ngày vẫn chưa hết và sẽ làm người nghe phải than: “Biết rồi, khổ lắm, nói mãi!”. Vì vậy chúng tôi chỉ trình bầy những gì chúng tôi nghĩ là cần phải nói.
1/ Một nền kinh tế vô định hướng Chúng ta nhìn nhận Việt Nam đã đạt một số tiến bộ về kinh tế từ năm 1986, khi Đại Hội 6 của đảng Cộng Sản Việt Nam chọn Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh và quyết định áp dụng kinh tế thị trường, mở cửa cho tư bản ngoại quốc đến đầu tư. Để thực hiện điều này, nhà nước Việt Nam đã phải ban hành một số luật lệ và áp dụng một số biện pháp mới khả dĩ đáp ứng nhu cầu giao lưu quốc tế và tạo một bộ mặt coi được cho “quan trên trông xuống, người ta trông vào”. Từ đó, đời sống của dân chúng cũng đỡ bị bóp nghẹt, không còn nạn tem phiếu, xếp hàng cả ngày, ngăn sông cấm chợ. Kinh tế tự do như một giòng nước tìm chỗ chảy, chỗ nào không bị be bờ là nước sẽ tràn tới. Vì vậy, sự tiến bộ tương đối về kinh tế trong gần ba thập niên qua là điều tất nhiên. Lợi tức thường niên tính theo đầu người từ 300 Mỹ kim cách đây 25 năm đã tăng lên 1,200 Mỹ kim trong năm nay (theo Phó Thủ Tướng Nguyễn Sinh Hùng), dù còn thua rất xa những nước lân bang như Thái Lan, Mã Lai, Singapore (1). Một số chính phủ và nhân vật chính trị cổ võ quan điểm nên giúp các chế độ độc tài phát triển kinh tế. Một khi kinh tế khá lên, tự do và dân chủ cũng sẽ triển nở, vì lúc đó dân chúng sẽ đòi thỏa mãn những nhu cầu khác ngoài nhu cầu cơm áo. Luận điểm này đã được chứng minh ngược lại với các trường hợp Trung Hoa và Việt Nam. Nó chỉ còn giá trị biện minh cho sự cộng tác với những chế độ đàn áp con người. Áp dụng kinh tế thị trường là đi ngược điểm cốt lõi của chủ thuyết cộng sản, theo đó quyền tư hữu không được công nhận, tài sản do mọi người làm ra phải được tập trung trong sự quản trị của nhà nước vô sản chuyên chính và sẽ được phân phối theo nhu cầu. Vì vậy, để khỏi mang tiếng hoàn toàn đánh mất lập trường cơ bản, kinh tế thị trường được gắn thêm cái đuôi “theo định hướng xã hội chủ nghiã”. Nếu xã hội chủ nghiã được hiểu là thực thi tình đoàn kết liên đới (solidarity) theo chế độ dân chủ xã hội (social democracy) như ở các nước Bắc Âu: người giầu giúp người nghèo, người khỏe mạnh giúp người đau ốm, người trẻ nuôi người già, người có việc nuôi người thất nghiệp, nhà nước chỉ đóng vai trò điều hành và phân phối một cách trong sáng, thì đó là điều vạn phúc cho dân. Thế nhưng định hướng xã hội chủ nghiã trong ý nghĩ và hành động của cộng sản Việt Nam chỉ là “quốc doanh chủ đạo”. Những công ty nhà nước nắm hết những ngành sản xuất và doanh thương quan trọng. Tại những quốc gia dân chủ bình thường, những công ty quốc doanh chỉ được duy trì một cách hạn chế để làm đầu tầu kéo chính sách kinh tế vĩ mô và bảo đảm an toàn cho việc cung cấp những dịch vụ có lợi ích công cộng hay thiết yếu cho an ninh quốc phòng (bưu điện, giao thông, dầu khí, điện nước …). Nhà nước cộng sản Việt Nam có giảm bớt một số công ty quốc doanh qua biện pháp cổ phần hóa, nhưng vẫn giữ lại nhiều công ty không thuộc lãnh vực phục vụ công ích và an ninh quốc gia. Thêm vào đó, dưới trào Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng, những tập đoàn doanh thương nhà nước có tầm vóc bao trùm với số vốn khổng lồ được thành lập, như Vinashin (kỹ nghệ tầu thủy, công ty tài chánh ALC II (lease financing, cho vay tài khoản tạo mãi thiết bị sản xuất). Các tập đoàn này được đặt trực thuộc thủ tướng. Việc giữ lại cái đuôi định hướng xã hội chủ nghiã với những đại công ty và tập đoàn kinh tế còn có những tính toán không thể nói ra: - Rút tiền từ các công ty để tài trợ cho đảng cộng sản, - Làm giầu cá nhân qua những món tiền đi đêm khi ký hợp đồng và chia chác hoa hồng, - Gài người thân tín vào các chức vụ chỉ huy các công ty để nắm luôn quyền lực kinh tế. Tư lợi thì như thế, nhưng trách nhiệm thì vô can. Công ty nào lỗ vốn đã có tiền của quốc gia đắp bù. Vinashin nợ 80,000 tỷ đồng VN trước khi tái cơ cấu, trong số nợ này 750 triệu Mỹ kim là trái phiếu chính phủ (VNExpress 24-5-2011). Vinashin không có tiền trả nợ và lãi định kỳ cho các ngân hàng quốc tế khiến nhà nước phải ứng thêm 500 triệu Mỹ kim. ALC II lỗ 3,004 tỷ đồng VN trong năm 2009, và đến cuối năm 2010 công ty này vừa lỗ vừa làm thất thoát tới 4,000 tỷ đồng (theo Ban Kiểm Toán công ty ALC tháng 10, 2010). Tổng công ty xăng dầu lỗ 3,600 tỷ trong 3 tháng (2). Lối làm ăn phản kinh tế này chứng tỏ những người cầm quyền không dám tiến thẳng tới nền kinh tế thị trường tự do, vì chưa dám lột bỏ nhãn hiệu xã hội chủ nghiã (dù nội dung đã khác hết rồi), sợ “diễn biến hòa bình” xảy ra và vì còn muốn tiếp tục thủ lợi qua chính sách kinh tế nhập nhằng này, đúng như Hà Sĩ Phu nhận định: “Đổi mới là lọc lấy cái béo bở, còn tự do dân chủ thì vứt bỏ…Làm kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghiã chính là đứa con lai láu cá đó. Trong cách tính toán ấy làm gì có dân?” (Chia Tay Ý Thức Hệ). Trong khi đó việc để cho hàng lậu tràn ngập thị trường nội địa, đặc biệt xuất phát từ Trung công, gây thất thâu cho ngân sách quốc gia và giết chết nhiều ngành công nghệ bản xứ. Nạn nhân viên thuế vụ kiếm tiền riêng trong việc thỏa hiệp với người đóng thuế cũng gây thiệt hại cho công qũy những số tiền khổng lồ không ai ước lượng nổi. Làm kinh tế như thế thì sớm muộn cũng dẫn đến phá sản. Hậu qủa trông thấy là đồng bạc VN mất giá 20% trong vòng ba năm nay, chính phủ VN nợ ngoại quốc 29 tỷ Mỹ kim, mỗi năm phải trả tiền lời 4 tỷ Mỹ kim. Chỉ trong tháng 5-2011, nhập cảng nhiều hơn xuất cảng 1.7 tỷ Mỹ kim, ngoại tệ dự trữ chỉ còn 12,2 tỷ (theo Tổng Cục Thống Kê), không đủ trả tiền lời và mua hàng nhập cảng cho năm nay, trong đó có những nguyên liệu cần thiết cho các nhà máy. Chắc chắn nhà nước sẽ phải đi vay nợ thêm, dù số nợ công đã tăng tương đương 52,6% tổng sản lượng nội địa (GDP). Hệ thống ngân hàng rối loạn. Ngân hàng nhỏ vay tiền ngân hàng lớn của nhà nước với lãi xuất 20% để chi phí cấp thời và cho vay lại với lãi xuất 14% theo luật định (đài BBC 23-5-2011, theo hãng tin tài chánh Bloomberg). Nợ xấu không có khả năng trả lên tới 60% (3). Lối làm kinh tế giật gấu vá vai và “mì ăn liền” kiểu này sẽ tạo nguy cơ phá sập nền kinh tế còn non nớt. Tệ hại hơn cả là nạn vật giá leo thang. Giá tiêu thụ tăng 17,51% trong tháng 4 và 19,78% trong tháng 5-2011 so với cùng thời gian hai tháng này năm trước (theo Bloomberg), khiến đời sống của những người có lợi tức thấp càng thêm cơ cực. Nhà nước tìm cách giảm lạm phát bằng việc tăng lãi xuất cho vay để hạn chế khối tiền tệ lưu hành. Giải pháp này chẳng những không hữu hiệu với hoàn cảnh Việt Nam hiện tại mà còn gây khó khăn cho các cơ sở doanh thương ít vốn, khiến các cơ sở này phải thu hẹp hoạt động, sa thải nhân công, làm cho kinh tế trì trệ thêm. Kinh tế Việt Nam đang đi theo đường nào và sẽ đi về đâu?
2/ Một đất nước bị bán rẻ, bị khai thác và tàn phá Bổn phận đầu tiên của những người có trách nhiệm quản trị đất nước là bảo vệ sự vẹn toàn lãnh thổ quốc gia và bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân. Những người cầm quyền cộng sản VN đã làm gì? Họ đã nhượng một phần lãnh thổ và lãnh hải cho cộng sản Trung Hoa để đổi lấy sự ủng hộ chính trị cho riêng đảng cộng sản của họ. Được đà, cộng sản Trung Hoa đã leo thang đòi chủ quyền đảo và biển từ Hoàng Sa cho tới hết Trường Sa theo hình lưỡi bò do họ tự vẽ. Ngoài những lời phản đối lấy lệ, cộng sản VN không có một hành động cụ thể nào, kể cả hành động pháp lý hòa bình nhất, để bảo vệ những gì đã mất hay đe dọa bị mất. Ngay khi những chiếc tầu của Trung công xâm nhập hải phận VN để vét cá hay kéo tầu, bắt giết ngư dân VN, nhà cầm quyền VN chẳng những không có biện pháp bảo vệ lãnh hải và công dân của mình mà còn không dám gọi đích danh đó là tầu của Trung công, chỉ dám nói “những tầu lạ”. Thái độ nhu nhược này phải được coi như hành động đồng lõa, đầu hàng và bán nước, một tội mà nhân dân Việt Nam, dù thuộc bất cứ lập trường chính trị nào, không thể tha thứ. Họ đã cho Trung công băm vằm lãnh thổ, khai thác bauxite tại cao nguyên Trung phần, gây ô nhiễm môi trường, cho chuyên viên và thợ thuyền người Hoa đến đóng chốt tại những địa điểm có tính cách chiến lược và an ninh quốc phòng. Họ còn cho người nước ngoài thuê dài hạn 50 năm những khu rừng đầu nguồn thuộc 18 tỉnh trải dài từ Bắc xuống Nam, chiếm 1% diện tích lãnh thổ. Rừng cho thuê bị đốn cây có sẵn để trồng những loại cây khác theo ý muốn của người thuê. Các chính quyền địa phương tại những tỉnh ven biển cũng bắt chước trung ương khoanh biển và bờ biển cho các công ty ngoại quốc thuê để xây khách sạn, lập bãi tắm riêng, nuôi cấy thủy sản trong những vùng biển rộng hàng ngàn mẫu tây, đe dọa thay đổi sinh thái của toàn thể vùng biển Việt Nam (4). Họ đã rút ruột những công trình xây cất khiến giá thành cao và phẩm chất kém. Cụ thể là những công trình mới được xây nhân dịp đại lễ 1000 năm Thăng Long, như công viên Hòa Bình và đại lộ Thăng Long, tốn kém hàng tỷ Mỹ kim nhưng đã lún lở, bong nứt, đọng nước ngay khi lễ hội vừa xong. Nguyên nhân là những người có quyền đã ăn chịu với nhà thầu, mọi công đoạn đều có đút lót, chia chác, khiến số tiền thực sự dành cho công trình còn lại không bao nhiêu. Hậu qủa tự nhiên là những công trình được thực hiện bôi bác bằng những vật liệu kém, thiếu tiêu chuẩn, sẽ chóng hư hỏng. Họ để mặc cho các công ty kỹ nghệ tự do tháo nước thải đầy hóa chất độc hại xuống các giòng nước, tự do xả khói độc lên bầu trời, gây ô nhiễm môi trường và tàn phá sức khỏe của người dân. Công ty Vedan đã biến sông Thị Vải thành một giòng nước độc. Có những làng ở miền Bắc chìm trong tang thương vì có rất nhiều dân làng đã chết vì bệnh ung thư do khói độc và nước thải của những xưởng kỹ nghệ gần đó gây ra. Nếu tình trạng này tiếp tục, chỉ trong một thời gian ngắn nữa, đất nước Việt Nam sẽ biến thành đất chết. Đất nước bị bán rẻ, bị khai thác, bị bòn rút, bị bỏ mặc cho bọn con buôn vô lương tâm tàn phá, chỉ vì lợi riêng của những người cầm quyền cộng sản.
3/ Một dân tộc bị bóc lột và trấn áp Dân tộc VN đã trở thành công cụ cho đảng cộng sản thực hiện giấc mơ quyền lực, không đếm xỉa tới xương máu của nhân dân và tài nguyên của quốc gia. Họ cũng dùng dân Việt để thử nghiệm việc áp dụng chủ thuyết cộng sản: hận thù giai cấp, cải cách ruộng đất, quản lý bao tử, kiểm soát ý nghĩ và kiểm soát cả niềm tin. Khi thất bại và tình thế đòi hỏi, họ đổi sang đường lối gọi là cởi mở với chiêu bài kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghiã, vừa để giải quyết vấn đề kinh tế, vừa để bọn họ có cơ hội làm ăn, vơ vét theo kiểu mới. Vì thế, nhiều tệ nạn phát sinh và được tự do phát triển Nạn tham nhũng đã lan tràn và luồn lách vào mọi tế bào xã hội, không chỉ riêng trong guồng máy công quyền. Lớn tham nhũng lớn, nhỏ tham nhũng nhỏ, dân cũng tham nhũng với nhau. Muốn được việc phải có qùa cáp hay phong bì lót tay. Xin việc, xin học đều phải hối lộ. Muốn con được điểm tốt thì phải biếu xén thầy cô, cho con học thêm tại nhà thầy cô. Người lớn bị cướp tiền. Trẻ con bị cướp tuổi thơ, không còn giờ vui chơi, mơ mộng. Tệ nạn tham nhũng không thể chữa nếu không thay đổi cơ chế chính trị và không có quyết tâm diệt tham nhũng và làm gương từ cấp cầm quyền thượng tầng. Thiếu vắng những biện pháp giáo dục, y tế và xã hội nhằm phục vụ đại đa số nhân dân. Giáo dục công nhưng không miễn phí, mỗi trường tự ý đặt ra những lệ phí bắt phụ huynh phải trả. Học sinh khi thi tốt nghiệp trung học phổ thông cũng phải đóng tiền ủng hộ nhà trường trước khi rời trường. Nhiều gia đình không kham nổi đành cho con nghỉ học. Con số trẻ em bỏ học và thất học gia tăng. Dịch vụ y tế đã biến thành dịch vụ làm tiền. Bệnh nặng hay nhẹ đều phải có tiền mới được chữa trị. Nhà nước mới gia tăng lệ phí trên 350 dịch vụ y tế. Người bệnh không có tiền mà lết đến nhà thương sẽ bị chửi bới và xua đuổi như ăn mày, chỉ còn nước về nhà chờ chết. Những gia đình nghèo, những người góa bụa, những trẻ em không người nuôi dậy, những người già cả không ai phụng dưỡng sống lây lất, nhà nước không nhòm ngó tới. Nhiều tổ chức từ thiện trong và ngoài nước đã phải làm thay những việc đáng lẽ nhà nước phải làm. Tước đoạt quyền công dân và những tự do căn bản trong đó có tự do ngôn luận, tự do lập hội, tự do bầu những người đại diện để điều khiển đất nước được ghi rõ trong Hiến Pháp nhưng trên thực tế bị cấm đoán triệt để. Ai xử dụng quyền chính đáng của mình sẽ bị vu oan, bị khép vào tội vi phạm an ninh quốc gia và bị xử theo điều 88 Luật Hình Sự. Một thứ quyền cao trọng nhất thuộc phần tâm linh của con người, tự do tôn giáo, cũng bị cấm đoán dưới nhiều hình thức tinh vi. Dẹp được giáo hội nào thì dẹp luôn. Không dẹp được thì dùng biện pháp chia để trị bằng cách lập ra giáo hội mới, xúi bẩy phân chia giáo hội chính truyền thành nhiều phe phái (Phật Giáo), lập những ban trị sự giáo hội gồm những tay sai cộng sản (Phật Giáo Hòa Hảo, Cao Đài), tìm thỏa hiệp với các vị lãnh đạo tinh thần bằng chính sách cây gậy và củ cà rốt (Công Giáo). Cộng sản và tôn giáo là hai đối thủ không đội trời chung. Ngay lúc trời yên gió lặng, hai bên cũng chỉ đối xử với nhau bằng mặt, không bằng lòng. Tín đồ các tôn giáo là những khối quần chúng có một niềm tin khó lay chuyển và dễ nghe lời các vị lãnh đạo tinh thần. Vì vậy, muốn làm suy yếu khối quần chúng tín đồ thì phải xé nát khối này thành nhiều mảnh và phải nắm được các chức sắc của các giáo hội. Mỗi giáo hội được cư xử và đàn áp một cách khác nhau, tất cả đều nhắm mục tiêu vô hiệu hóa sức mạnh của khối quần chúng các tôn giáo. Đối xử tàn ác với dân: tệ nạn cướp đất, cướp ruộng, đuổi nhà, bồi thường với giá rẻ và bán lại với giá gấp trăm đã tạo ra từng đoàn lũ dân oan, bỏ công ăn việc làm, dẫn nhau đi khiếu kiện từ Sài Gòn ra Hà Nội mà không được ai tiếp xúc và giải quyết. Những người lên tiếng một cách hòa bình đòi tự do, dân chủ, nhân quyền bị đánh đập, vu oan, bắt nhốt, đưa ra tòa và bỏ tù. Những vụ đàn áp trắng trợn nhất mới xảy ra cho Luật sư Lê Quốc Quân, Bác sĩ Phạm Hồng Sơn, Luật sư Cù Huy Hà Vũ. Cộng sản còn có thói quen “ăn thịt” chính những đứa con của mình: Nguyễn Hộ, Trần Độ, Hoàng Minh Chính và mới đây Vi Đức Hồi. Những vụ đánh đập giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân lòi mắt, bể đầu, gẫy tay tại Tam Tòa, Đồng Chiêm, Loan Lý, Cồn Dầu cho thấy cách đối xử tàn ác, thiếu tình người, chưa nói tới tình đồng bào, của một nhà nước vẫn tự khoe phục vụ nhân dân. Chỉ trong bốn tháng đầu năm 2011, đã có 5 người dân vô tội bị công an đánh chết. Tổng số dân lành bị công an đánh chết hay chết tại đồn công an đã lên tới 25 người trong mấy năm qua. Vào tháng 4 vừa qua, chị Nguyễn Thị Thanh Tuyền, vợ nạn nhân Nguyễn Công Nhật ở Bình Dương còn bị một sĩ quan công an gọi điện thoại tống tình, đòi chị dâng hiến thân xác để đánh đổi sự an toàn cho chồng, trong khi anh Nhật đã chết một cách mờ ám ở đồn công an. Thật không còn hành động nào tàn ác và đê tiện hơn! Tội nghiệp cho dân Việt Nam! Họ được những người mệnh danh là đầy tớ nhân dân đối xử như quân thù, muốn bắt, muốn đánh, muốn giết lúc nào tùy ý. Dân Việt Nam đang bị cai trị bởi những người cùng giòng máu nhưng hung ác và nhẫn tâm hơn những tên thực dân ngoại chủng cướp nước ngày xưa.
II – NHỮNG HẬU QỦA ẢNH HƯỞNG TỚI XÃ HỘI VÀ TÂM THỨC CỦA CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC Tình trạng đất nước như trình bầy ở trên đã gây ra những hậu qủa tai hại cho xã hội và cho tâm thức của con người Việt Nam.
1/ Mất ý niệm công ích và liên đới xã hội Đa số (chúng tôi không dám nói tất cả) dân Việt Nam ở trong nước hiện nay đã mất ý niệm công ích, thí dụ tự ý làm những việc nhỏ nhặt như lượm một cọng rác, không vứt tàn thuốc lá bừa bãi, không bứt hoa đạp cỏ tại công viên, cho tới những việc lớn hơn một chút như tôn trọng luật lệ giao thông, nhường đường cho người khác. Họ không còn nghĩ rằng giữ một không gian sống sạch đẹp sẽ có ích lợi cho mọi người, trong đó có họ; giúp giao thông điều hòa, tránh ùn tắc, sẽ tiết kiệm được thời giờ của mọi người, kể cả họ. Họ chỉ muốn được việc cho riêng mình, thỏa mãn ý thích của riêng mình, không cần nghĩ tới ai khác. Ở bình diện cao hơn, những lợi ích chung của đất nước và xã hội như kỷ cương, luật lệ, danh dự của đất nước, uy tín của dân tộc cũng bị coi thường. Biết cách vi phạm luật lệ mà không bị phát giác được coi là khôn ngoan. Lừa đảo, gian tham, buôn bán ma túy làm giầu mau lẹ được coi là khéo xoay sở. Sang Anh, Úc trồng cần sa để kiếm tiền bất chánh, không quan tâm tới luật lệ xứ người, không sợ bị truy tố và chỉ đích danh là người Việt Nam, được coi là tài giỏi. Những ai tôn trọng luật pháp, làm ăn lương thiện bị chê là khờ dại, đôi khi còn bị chửi là đồ ngu, làm rách việc. Tình liên đới xã hội cũng không còn. Giúp đỡ người tàn tật, nghèo đói, ốm đau, gặp tai nạn… là việc của người khác, không phải của “tôi”. Thấy người bị hành hung, kể cả nữ sinh bị lột trần và đánh hội đồng giữa đường phố, cũng chỉ đứng xem, không can ngăn. Thái độ dửng dưng là thái độ của con người vô cảm, không còn xúc động trước bất cứ điều gì. Trên bình diện quốc gia, thiếu vắng những biện pháp giảm bớt sự chênh lệch giầu nghèo, không thực hiện tình liên đới và công bằng xã hội bằng việc chữa trị người đau ốm, săn sóc người già, trợ cấp người thất nghiệp, nuôi nấng cô nhi qủa phụ và người khuyết tật. Tự nhận theo xã hội chủ nghiã mà không làm những việc này là nói láo.
2/ Mất ý niệm dân tộc và ý chí đấu tranh Một dân tộc là một tập hợp của những con người có cùng nguồn gốc, cùng tiếng nói, cùng lịch sử, cùng phong tục. Yếu tố nguồn gốc chỉ tính theo đa số. Chẳng có dân tộc nào thuần nhất về nguồn gốc một trăm phần trăm. Nhiều dân tộc hiện nay mang tính tạp chủng nhưng người dân vẫn gắn bó với nhau vì những thụ đắc chung trong qúa khứ, vì nhu cầu sống chung trong hiện tại và những ước vọng chung cho tương lai. Tinh thần dân tộc của người Việt hiện nay ra sao? Từ trên xuống dưới đều sống theo kiểu “Sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi”. Đảng cộng sản thì chỉ lo cho đảng trụ càng lâu càng tốt để tiếp tục vơ vét và cưỡi cổ dân tộc. Nhân viên công lực có nhiệm vụ bảo vệ dân thì chỉ biết “còn đảng, còn mình”. Dân thì lo kiếm sống cho bản thân và gia đình đã hụt hơi. Khi khá giả hơn thì tìm cách ăn chơi hưởng thụ. Hỏi còn lại bao nhiêu người nghĩ đến đất nước, đến dân tộc, đến tương lai của những thế hệ sau? Đất nước bị bán rẻ, bị khai thác cũng mặc. Đồng bào sống ngay cạnh mình bị đối xử tàn ác, bất công, bị cướp đất, bị tống tiền cũng dửng dưng. Ý niệm dân tộc đã mất. Tinh thần dân tộc đã phai mờ. Một quốc gia mà tuổi trẻ không biết phản đối, đôi khi nổi loạn để đòi hỏi những cải cách xã hội là một quốc gia không có tương lai. Tuổi trẻ vốn nhiều lý tưởng, luôn đòi hỏi những gì tốt hơn, luôn mong ước một xã hội hoàn hảo hơn. Có thể một số đòi hỏi của họ không hợp lý và không tưởng, nhưng hãy để cho họ lên tiếng nói. Đừng dập tắt lý tưởng, lòng hăng hái và những mộng mơ của tuổi trẻ. Với thời gian, họ sẽ trở nên khôn ngoan chín chắn hơn. Nếu bắt họ vào khuôn phép, chỉ thờ một thần tượng, chỉ tùng phục một tập đoàn toàn trị, có thể họ sẽ trở nên ngoan ngoãn, nhưng sẽ mất hết ý chí phấn đấu, kể cả phấn đấu cho điều thiện, cho đất nước, cho dân tộc. Phải chăng đảng cộng sản VN muốn một tuổi trẻ như thế? Tuổi trẻ vốn ít sợ hãi, ít tính toán mà đã bị làm tê liệt như vậy, thử hỏi những lớp người lớn hơn sẽ còn dè dặt và thụ động tới đâu? Một cuộc thay đổi toàn diện là điều đa số người Việt Nam mong muốn. Mong muốn nhưng để người khác làm. Mình chỉ muốn đứng coi và hưởng thành qủa. May thay vẫn còn nhiều người, kể cả những người trẻ, đã được miễn nhiễm loại vi trùng “liệt kháng” này. Đó là hy vọng của dân tộc và cũng là mối lo của những người đang cầm quyền.
3/ Mất ý niệm đạo lý và truyền thống Sống giữa một xã hội băng rã như vậy, được đào tạo trong một nền giáo dục lạc hậu, dối trá, vụ thành tích với những tấm gương không đẹp của thầy cô; được hướng dẫn tinh thần bởi những chức sắc tôn giáo sẵn sàng thỏa hiệp với kẻ ác có quyền để đổi lấy mũ áo xênh xang, cơ sở “hoành tráng”, cờ xí rước xách linh đình, dù sứ mạng được trao là bênh vực người nghèo, kiếm tìm công lý cho người bị áp bức; được cai trị bởi những quan tham từ thượng tầng tới hạ tầng chỉ lo kiếm tiền và hành dân, coi đất nước và dân tộc không quan trọng bằng ghế ngồi và hầu bao của mình, như thế người dân làm sao tránh khỏi phải phản ứng theo tình thế, điều chỉnh lối sống theo hoàn cảnh để sống còn. Luân lý, đạo nghiã trở nên vô dụng, không còn giúp được gì cho đời sống cá nhân và xã hội. Từ đó người ta nhiễm thói quen mới: sống theo bản năng, theo tâm lý thực dụng, tất cả để tìm kiếm quyền và lợi. Tương quan giữa người với người chỉ còn là tương quan quyền lợi, tìm cách lợi dụng và bóc lột lẫn nhau. Trên báo chí Việt Nam, chúng ta thấy đầy dẫy những bản tin cha mẹ, con cái, vợ chồng, bạn bè giết nhau, đốt nhau vì tiền và tình, thậm chí thầy hiệu trưởng Sầm Đức Xương còn hiếp dâm nữ sinh và lôi học trò vào đường bán dâm. Trộm cướp, lừa gạt là chuyện cơm bữa. Nhà cầm quyền không có biện pháp giáo dục, ngăn ngừa, ngoài việc bắt nhốt và xử bắn. Thật ra, những người cầm quyền không thể làm hơn vì chính họ cũng là một phường trộm cướp, chỉ khác “cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan”. Những truyền thống hiếu thảo với cha mẹ, anh em, “tôn sư trọng đạo”, “bằng hữu thâm giao”, bán anh em xa mua láng giềng gần, “thấy người hoạn nạn thì thương”, “bầu ơi thương lấy bí cùng”… mà dân tộc Việt Nam đã trân trọng gìn giữ từ ngàn xưa nay trở thành trò cười cho những con người của thời đại cộng sản. Điều nguy hiểm là người ta không còn phân biệt xấu tốt, thiện ác, phải trái. Nhất điểm lương tâm đã lu mờ. Quan niệm tội trở thành chủ quan, vì mình tự cho phép mình phạm tội và chính mình làm quan tòa xét xử mình với những lý lẽ tự bào chữa. Lối suy nghĩ và hành động này đã được những người cộng sản phát huy tối đa và lây lan ra cả xã hội. Ông Hồ Chí Minh đã “chôm” lời của Quản Trọng để dậy đời: “Kế hoạch một năm không gì bằng trồng lúa. Kế hoạch mười năm không gì bằng trồng cây. Kế hoạch trăm năm không gì bằng trồng người” (Nhất niên chi kế mạc như thụ cốc. Thập nhiên chi kế mạc như thụ mộc. Bách niên chi kế mạc như thụ nhân) để nói lên cái hại của sự tàn phá và cái khó của việc xây dựng con người. Ông “quên” nói tên tác giả và cũng quên rằng chính ông và bọn đàn em theo ông đã tàn phá con người Việt Nam từ nhiều thế hệ qua. Bao giờ mới tới lúc trồng người lại được đây? Và đến bao giờ mới có thể gặt hái thành qủa?
III – NHỮNG ĐIỂM HẸN KHÔNG THỂ VẮNG MẶT TRONG TƯƠNG LAI Những người có trách nhiệm quản trị đất nước, ngoài việc giải quyết những vấn đề hiện tại, còn phải biết sửa soạn cho đất nước có khả năng đối phó với những vấn đề tương lai, ít ra là tương lai gần. Một số vấn đề quan trọng của địa cầu và của con người sống trên đó đang được quan tâm và bàn cãi một cách khẩn trương. Việt Nam không thể đứng ngoài mối quan tâm này.
Trong cuốn The World in 2050 (Thế Giới Vào Năm 2050) được nhà xuất bản Dutton phát hành tại Hoa Kỳ năm 2010, tác giả Laurence C. Smith đã nêu lên một số vấn đề lớn mà nhân loại phải lo giải quyết ngay từ bây giờ. Đó là - Gia tăng dân số kèm theo đòi hỏi gia tăng thực phẩm và nguyên liệu, - Đô thị hóa và những vấn đề đặt ra, - Toàn cầu hóa với những ưu điểm và khuyết điểm, - Thay đổi khí hậu với những hậu qủa của nó.
1/ Việc gia tăng dân số địa cầu đã diễn ra với một tốc độ càng lúc càng nhanh. Cách đây khoảng 12,000 năm, chỉ có 1 triệu người sống trên trái đất. Măi đến năm 1800, dân số địa cầu mới tăng lên 1 tỷ, rồi tỷ thừ hai đạt được chỉ sau đó 230 năm, tức năm 1930. Tỷ thứ ba chỉ cần 30 năm, 1960. Hiện nay trái đất có 6 tỷ người. Dự trù năm 2050 sẽ có 9.2 tỷ. Việt Nam năm 1975 chỉ có khoảng trên dưới 40 triệu dân cả Bắc lẫn Nam. Đến nay, sau 36 năm, dân số đã lên tới 86 triệu, tức qúa gấp đôi. Thêm người thì phải thêm thực phẩm, nước uống và các thứ nhiên liệu. Dù kỹ thuật canh tác và khai thác tài nguyên thiên nhiên có tiến bộ tới đâu, chúng ta vẫn phải tự hỏi trái đất có khả năng thỏa mãn những nhu cầu ngày càng gia tăng của con người mãi mãi được không? Vì vậy việc bảo đảm một môi trường sạch, nhất là nguồn nước sạch là vấn đề thiết yếu hàng đầu. Việt Nam đang làm gì với tài nguyên thiên nhiên và môi trường của mình? Nước thải khai quặng bauxite và từ các xưởng kỹ nghệ, đốn cây phá rừng, xử dụng bừa bãi hóa chất mua rẻ từ Trung Hoa có góp phần giải quyết vấn đề này không?
2/ Hiện tượng đô thị hóa làm cho số người sống ở thành thị ngày càng gia tăng. Năm 2007 có 3.3 tỷ người sống ở các đô thị trên toàn thế giới. Con số này sẽ gia tăng tới 6.4 tỷ vào năm 2050. Dân bỏ nông thôn kéo nhau đi sinh sống làm ăn ở đô thị vì mức sống ở nông thôn qúa thấp, đời sống buồn tẻ, thiếu tiện nghi, chưa kể nhiều nhà máy, nhiều công trình mọc lên trên đất nông thôn, khiến đất canh tác ngày càng thu nhỏ. Những người quyết định kế hoạch mở rộng thành phố Hà Nội lên tận chân núi Ba Vì và sang tận tỉnh Hòa Bình có hiểu việc cắt đất canh tác, giảm khả năng cung cấp thực phẩm và đẩy nhanh việc đô thị hóa sẽ gây những hậu qủa gì cho toàn khu vực quanh Hà Nội trong mười hoặc hai mươi năm nữa? Đô thị mở rộng và tăng dân cư trú đặt ra nhiều vấn đề cho những nhà cai trị và quản trị: công ăn việc làm, cung cấp thực phẩm, nước uống, giáo dục, vệ sinh và y tế, giao thông… Cứ nhìn các thành phố Hà Nội và Sài Gòn, với dân số tăng gấp 3 gấp 4 trong 36 năm qua, với nạn ùn tắc xe cộ, với tình trạng đường phố biến thành sông khi có mưa lớn, với nạn cúp điện giữa ngày hè nóng nực…, chúng ta đã đoán biết đời sống của thị dân hai thành phố này trong những thập niên sắp tới sẽ khốn khổ ra sao, nếu không có những cải thiện căn bản.
3/ Toàn cầu hóa là một nhu cầu của thời hiện tại. Nó cổ võ giao lưu hàng hóa và sự hiểu biết. Nó kéo các dân tộc lại gần nhau và làm cho trình độ dân trí không qúa cách biệt giữa các sắc dân trên địa cầu. Nhưng khi nói đến toàn cầu hóa là nói đến tự do doanh thương. Thomas Friedman trong cuốn The World is flat, xuất bản năm 2006 tại Hoa Kỳ, nhận định tự do doanh thương đòi hỏi tối đa tính hiệu qủa (efficiency) và lợi nhuận (profitability). Những gì rẻ nhất, kể cả sức lao động, được săn lùng đến khắp mọi ngõ ngách của trái đất. Điều này khiến cho hố cách biệt giầu nghèo ngày càng mở rộng. Những nước có kỹ thuật cao mua rẻ nguyên liệu và thuê rẻ lao động của các nước nghèo. Họ không chuyển giao kỹ thuật. Dân nghèo có việc làm tạm bằng lòng với đồng lương vừa đủ sống qua ngày, còn hơn thất nghiệp và đói rách. Trong khi giới đầu tư thu hoạch “một vốn bốn lời”. Phát triển kinh tế ở Việt Nam đang đi theo con đường này. Lẽ ra việc dùng nhân công rẻ để thu hút 73;ầu tư chỉ là giai đoạn đầu. Ngay sau đó phải học hỏi và đòi hỏi chuyển giao kỹ thuật. Với lối đào tạo nặng lý thuyết và lạc hậu tại các đại học như hiện nay, với việc cấp bằng tiến sĩ như bán rau muống, với việc gửi hàng vạn sinh viên đi du học mà ít có người chịu về, nhất là với tình trạng móc ngéo để hỗ tương thủ lợi giữa những người có quyền và những nhà đầu tư, toàn cầu hóa đối với Việt Nam là tiếp tục cung cấp lao động rẻ, tiếp tục giúp một thiểu số làm giầu và tiếp tục bán rẻ tài nguyên của đất nước.
4/ Khí hậu thay đổi sẽ gây những hậu qủa trầm trọng.Trái đất sẽ nóng lên vì hiện tượng nhà kính (green house), nhưng quan trọng hơn là khí thải CO2 (carbon dioxide) của các xưởng kỹ nghệ, của khói xe đủ loại. Các nhà khoa học ước tính khi nhiệt độ địa cầu tăng từ 3 đến 6 độ bách phân, các băng sơn ở hai cực sẽ tan, mực nước biển sẽ dâng cao từ 40 tới 60 mét, nhiều vùng đất ven biển sẽ bị ngập. Trong số 20 thành phố hải cảng có nguy cơ bị ngập lớn nhất, Sài Gòn đứng thứ 5, Hải Phòng thứ 16. Tình trạng xả khói xe, khói nhà máy ở Việt Nam rất trầm trọng. Việc phải làm ngay là bắt buộc các công ty kỹ nghệ phải lọc khói và lọc nước trước khi trả lại thiên nhiên, bắt các nhà sản xuất xe hơi, xe gắn máy phải tìm cách giảm thiểu khí thải CO2, buộc xe cộ phải dùng xăng không pha chì (unleaded). Những điều trên không liên quan trực tiếp đến đề tài tình hình Việt Nam, nhưng liên quan đến số phận của đất nước và dân tộc trong một tương lai không xa. Chúng là những điểm hẹn với thế giới nhằm giải quyết những vấn đề của địa cầu, trong đó có Việt Nam. Còn một điểm hẹn khác tối ư quan trọng mà chúng ta không có quyền để lỡ, đó là điểm hẹn với lịch sử để chấm dứt trang sử đau thương của dân tộc sau 60 năm dưới chế độ cộng sản, và giải quyết mọi vấn đề còn chồng chất do qúa khứ để lại. Đó là những vấn đề của Việt Nam. Đó là tình hình đất nước hiện nay. Chúng ta không bôi đen toàn cảnh nhưng thực sự không thể lạc quan. Nghĩ cho cùng dân Việt Nam chỉ là nạn nhân. Những thờ ơ của họ đối với đất nước, những giành giật mánh mung đối với đồng bào, những khiếp nhược đối với người cầm quyền, tất cả là nhu cầu phải thích ứng với hoàn cảnh để tìm sự sống trong cái chết. Chính những người cộng sản muốn tạo ra một khối dân như vậy để dễ dàng cai trị và bóc lột. Đừng đặt những vấn đề lý tưởng cao siêu, kể cả lý tưởng cộng sản, với những người cộng sản Việt Nam. Họ không còn tin gì hết. Họ chỉ lọc lựa những gì còn có lợi cho họ để làm nhãn hiệu dán trên lưng hầu tiếp tục ra tuồng. Xã hội chủ nghiã, quyền lợi giai cấp công nông, trung với đảng hiếu với dân… chỉ là những chiêu bài cửa miệng cực kỳ gian dối. Họ cố bám lấy quyền hành nhưng không biết và không muốn làm chức năng của người cầm quyền. Lý do dễ hiểu: họ chỉ coi đất nước như một chiến lợi phẩm để vơ vét, coi dân tộc như một bầy nô lệ để khai thác và bóc lột. Vì vậy, đối với những ai còn nghĩ tới đất nước và dân tộc, việc cấp thời phải làm ngay là đánh thức dân Việt về quyền lợi của họ bị cướp đoạt, nhắc nhở giới trí thức, sinh viên đừng quên vai trò dẫn đầu quần chúng của họ trong việc bảo vệ tổ quốc và xây dựng một xã hội tốt đẹp. Phải có ý thức mới dẫn tới hành động. Một tia lạc quan như ánh sáng le lói cuối đường hầm đã xuất hiện khi chúng ta thấy ý thức của dân Việt đã chuyển động, thấy dân đã hành động, dù chưa toàn bộ, thấy nhiều trí thức đã nhập cuộc, thêm vào đó là sự lúng túng, bất lực của những người cầm quyền tại Việt Nam trong việc giải quyết những vấn đề kinh tế. Họ cũng không dấu nổi những lo sợ, hoảng hốt qua việc gia tăng những đàn áp thô bạo nhắm vào dân, khiến dân càng thêm căm phẫn. Dân Việt Nam còn được khích lệ khi thấy cao trào đòi tự do dân chủ của nhân dân các nước châu Phi và Trung Đông đã đánh đổ nhiều chế độ độc tài tàn ác và vững mạnh, thấy thế giới đã đổi chiều, công khai yểm trợ những dân tộc biết đấu tranh cho quyền sống của mình. Chúng ta có những lý do để hy vọng một ngày tươi sáng của đất nước sẽ đến gần, để toàn dân cùng chung tay xây dựng tương lai, xóa đi những u ám của qúa khứ. Những cuộc thảo luận như chúng ta đang làm hôm nay cũng là góp phần làm cho niềm hy vọng đó sớm trở thành hiện thực.
Mặc Giao
………………………………………………………
(1) Theo Wikipedia, lợi tức thường niên tính theo đầu người (GDP per capita): Singapore: US$ 49,754. Malaysia: 13,385. Thailand: 7,907 (2) Thêm một số công ty nhà nước lỗ nặng trong năm 2010: Tổng Công Ty Cơ Khí Xây Dựng lỗ 39 tỷ đồng VN, Tổng Công Ty Công Trình Giao Thông lỗ 149 tỷ , Tổng Công Ty Cà Phê lỗ tích lũy từ trước đến nay 525 tỷ… (3) Cũng trong năm 2010, Tổng Công Ty Lương Thực Miền Nam nợ 56 tỷ đồng VN, Tổng Công Ty Xây Dựng Hà Nội nợ 51,2 tỷ, Công ty Thương Mại và Xuất Khẩu Viettel nợ 79 tỷ… (4) Một số trường hợp điển hình: Tỉnh Quảng Ninh có 19 dự án cho thuê biển để trồng cấy thủy sản: công ty Việt Mỹ được thuê 506 ha (1 ha = 1 mẫu tây = 10,000 mét vuông. 506 ha = 5,060,000 m2), công ty ToDi thuê 569 ha, công ty ngọc trai Taiheyo Shinju 30 ha…
Tại Nha Trang, công ty ngọc trai của Đài Loan được thuê 442 ha, công ty ngọc trai Nhật Bản 300 ha, công ty Marifarm của Na Uy 136 ha… Các bãi tắm đẹp nhất ven biển ở Đà Nẵng, Quảng Nam, Nha Trang, Ninh Thuận, Phú Quốc cũng đã và đang được giao cho các nhà đầu tư, đa số ngoại quốc, thuê dài hạn để họ tự do khoanh vùng, biến nhiều đoạn bờ biển thành bất khả xâm phạm. GS Nguyễn Tác An, Chủ Tịch Ủy Ban Quốc Gia Chương Trình Hải Dương Học, phát biểu: “Việc cho nước ngoài vào thuê mặt biển sẽ càng gây căng thẳng, mất an ninh. Rõ ràng, khi thuê được rồi, các ông chủ nước ngoài sẽ ngăn lại, làm mất quyền giao thông, mất quyền khai thác tại vùng biển quê hương của người dân. Bên cạnh đó, việc thuê mặt biển để kinh doanh quy mô lớn có thể gây những tác động khôn lường về môi trường… Nếu không suy xét cẩn trọng, chúng ta sẽ phải trả giá đắt trong hiện tại và tương lai”. Ông Nguyễn Chu Hồi, Phó Tổng Cục Trưởng Cục Biển và Hải Đảo thuộc Bộ Tài Nguyên Môi Trường (Bộ liên quan trực tiếp tới biển và rừng), tuyên bố: “Biển còn là câu chuyện dài, câu chuyện không của riêng ai, một công việc đại sự của cả dân tộc. Đừng để một kẻ chặt mấy cây gỗ rừng có thể bị xử tù, còn đang tâm phá tan lòng biển lại không ai thấy!” (theo vietnamnet.vn ngày 17-08-2010)
Của: Langco Nguyen
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét