SGTT.VN - Sau bài báo TP.HCM đối mặt với nguy cơ sụp đất, thiếu nước ngọt trên Sài Gòn Tiếp Thị ngày 3.6.2011, trao đổi với phóng viên báo Sài Gòn Tiếp Thị, thạc sĩ Phan Chu Nam, liên đoàn Quy hoạch và điều tra tài nguyên nước miền Nam cho rằng, TP.HCM phải có phân vùng trữ lượng khai thác nước dưới đất và phải khoanh vùng cấm khai thác nước ngầm nếu không muốn nhìn thấy những hậu quả như sụp lún mặt đất, nhiễm mặn...
Khai thác tràn lan khiến mực nước ngầm tại TP.HCM có nơi tụt xuống độ sâu -46m. Ảnh: H.T. Dũng |
Bên cạnh việc TP.HCM đang có một nghiên cứu sâu về vấn đề trên, theo ông Nam, nghiên cứu chi tiết điều kiện địa chất thuỷ văn của một lãnh thổ cũng là điều kiện cần thiết cho việc quản lý khai thác tài nguyên nước dưới đất.
Ngày nay, lời giải của mô hình dòng chảy nước dưới đất có thể cung cấp đầy đủ nhất những thông tin cần thiết, tạo điều kiện thuận lợi cho các tính toán và phân chia các khu vực có đặc trưng theo những tiêu chí đặt ra. Đặc biệt là vấn đề phân vùng cấm, hạn chế và được phép khai thác theo các tiêu chí đã được áp dụng trên thế giới.Thưa ông, đó là những tiêu chí gì?
Đó là các tiêu chí về trữ lượng nước dưới đất theo đầu người. Tiêu chí này phản ánh tổng lượng nước hàng năm của trữ lượng nước ngầm có thể được phục hồi (m3/năm) cho mỗi đầu người cấp lãnh thổ hoặc vùng. Mục tiêu của tiêu chí này là xác định lượng nước uống, nước cho nông nghiệp, công nghiệp và vệ sinh môi trường trong diện tích xác định. Ngoài ra còn là các tiêu chí về tổng lượng k hai thác so với tổng lượng bổ cập tự nhiên; về tổng lượng khai thác so với tổng trữ lượng tiềm năng; và về phần trăm sử dụng nước dưới đất (gồm tiêu chí về cạn kiệt nguồn nước, về khả năng có nguồn trữ lượng kéo theo, về mức độ ô nhiễm nguồn nước, về chất lượng nước).
Theo ông, đâu là những vùng cấm?
Vùng cấm khai thác bao gồm khu vực nội thành kéo dài từ quận Tân Phú (nhà máy nước ngầm Hóc Môn – Gò Vấp) xuống phía đông nam qua các quận 10,11, 5, 8 và quận 7. Đây là khu vực có mật độ xây dựng lớn với nhiều công trình có tải trọng lớn nên việc tiếp tục khai thác ở mức độ như hiện nay đã có nhiều nguy cơ tiềm ẩn. Nguy cơ xâm nhập mặn, lún đất do khai thác nước cần được thành phố đầu tư nghiên cứu chi tiết để có biện pháp phòng ngừa.
Vùng hạn chế khai thác bao gồm khu vực tiếp giáp vùng cấm khai thác đến khu vực chưa bị ảnh hưởng của khai thác, chủ yếu là khu vực tây bắc nội thành như quận Hóc Môn, tây nội thành quận Bình Tân. Ở những khu vực này do ảnh hưởng của việc khai thác nước mực nước của các tầng chứa nước đã bắt đầu có xu hướng hạ thấp dần theo thời gian.
Vùng có thể khai thác bao gồm khu vực tây bắc nội thành thuộc huyện Củ Chi. Ở những vùng này, ảnh hưởng của việc khai thác nước mực nước của các tầng chứa nước chưa xuất hiện, hơn nữa điều kiện bổ cập tự nhiên và nhân tạo rất thuận lợi. Đặc biệt đối với khu vực dọc theo thung lũng sông Sài Gòn việc khai thác các tầng chứa nước nông, nếu được thiết kế hợp lý sẽ cưỡng bức dòng thấm qua đáy sông thúc đẩy quá trình bổ sung trữ lượng nước dưới đất
LÊ QUỲNH (THỰC HIỆN)
185/282 phường xã có thể hạn chế khai thác nước Theo tổng công ty cấp nước Sài Gòn, qua kiểm tra, rà soát tình hình cấp nước tại các khu vực chưa hạn chế khai thác nước dưới đất theo quyết định 69 năm 2007 của UBND TP.HCM về hạn chế và cấm khai thác nước dưới đất, hiện tổng cộng có 185/282 phường, xã thuộc 21/24 quận huyện trên địa bàn có thể hạn chế khai thác nước dưới đất. Ước tính trên địa bàn TP.HCM có hàng trăm ngàn giếng khoan khai thác nước ngầm phục vụ cho ăn uống, sinh hoạt và sản xuất, với tổng lưu lượng khai thác gần 720.000m3/ngày, trong đó còn khá nhiều giếng khoan công nghiệp khác đang khai thác. Chỉ tính riêng năm 2006, sở Tài nguyên môi trường TP.HCM đã cấp 55 giấy phép khai thác với tổng lượng khai thác là 347.906m3/ngày. |
Mực nước ngầm tụt xuống độ sâu -46m
TP.HCM đối mặt với nguy cơ sụp đất, thiếu nước ngọt
SGTT.VN - Theo số liệu mới nhất, mực nước ngầm ở TP.HCM đã tụt xuống độ sâu -46m. Trao đổi với phóng viên báo Sài Gòn Tiếp Thị, PGS.TS Nguyễn Việt Kỳ, trưởng khoa kỹ thuật địa chất và dầu khí, đại học Bách khoa TP.HCM phân tích, số liệu trên cho thấy trữ lượng nước dưới đất nhạt của thành phố cũng suy giảm nhanh chóng.
Nước mưa là một nguồn có thể bổ sung tốt cho nước ngầm nhưng chưa được tận dụng. Ảnh: Khoa Nguyễn |
Theo ông Kỳ, các số liệu về sự suy giảm ngày càng gia tăng của mực nước tất cả các tầng chứa nước tại TP.HCM cho thấy nhiều nguy cơ. Lượng nước hiện đang khai thác lớn hơn khả năng tự hồi phục của các tầng chứa nước. Nói cụ thể hơn, lượng nước tự nhiên mà tầng chứa nước tiếp nhận hàng năm nhỏ hơn nhiều so với lượng nước chúng ta đang khai thác. Đồng thời, mực nước suy giảm nhanh sẽ đẩy nhanh tốc độ dịch chuyển các ranh giới mặn (đường đẳng trị độ khoáng hoá 1g/l) vào khu vực trước đây tồn tại nước nhạt, diện tích phân bố nước nhạt của các tầng do đó giảm nhanh khiến nhiều giếng nước nhạt, chất lượng tốt phải huỷ bỏ do bị nhiễm mặn.
Mực nước suy giảm nhanh tới các độ sâu lớn (trong tầng Pliocen tới -37,5m) làm tăng nguy cơ sụt lún bề mặt đất của thành phố – một hiện tượng khá phổ biến xảy ra nhiều nơi trên thế giới. TP.HCM, nơi được coi là một trong mười địa điểm chịu tác động mạnh nhất của biến đổi khí hậu toàn cầu (bị mất đất nhiều nhất do nước biển dâng), sự sụt lún bề mặt đất do khai thác nước càng làm tăng ảnh hưởng của hiện tượng này.
Mực và chất lượng nước ngầm đã đến mức báo động Theo kết quả quan trắc mới nhất từ chi cục Bảo vệ môi trường TP.HCM, so với năm 2009, mực nước tất cả các trạm quan trắc đều giảm từ 0,36 – 2,1m. Điều này cho thấy tình hình khai thác nước ngầm tại TP.HCM ngày càng mạnh mẽ, đặc biệt là ở các tầng nước sâu. Về chất lượng nước ngầm, hàm lượng các kim loại nặng Cu, Pb, Zn, Cd, As, Cr tại các trạm quan trắc nước dưới đất năm 2010 ở các tầng chứa nước đều tăng so với 2009, từ 1,1 – 12 lần, nhưng còn đạt chuẩn cho phép. |
Mực nước của các tầng chứa nước suy giảm làm thay đổi mối quan hệ thuỷ lực giữa các tầng chứa nước với nhau và với hệ thống nước mặt (chênh lệch áp lực gia tăng). Điều này cũng làm tăng khả năng thâm nhập của các chất ô nhiễm vào các tầng chứa nước, từ đó tăng nguy cơ nhiễm bẩn các tầng chứa nước, làm chất lượng nước trở nên kém đi.
Liệu có cách nào cải thiện mực mước và chất lượng nước không, thưa ông?
Một trong những biện pháp cấp bách đã được thành phố triển khai là phân vùng cấm, hạn chế và được phép khai thác nước dưới đất cùng với quy định không cho phép khai thác với độ hạ thấp mực nước tới -40m... Những giải pháp này hạn chế sự suy giảm và phục hồi dần dần mực nước, qua đó cũng phần nào cải thiện chất lượng nước (đẩy lùi ranh giới mặn ra xa).
Một biện pháp khác là “bổ sung nhân tạo”, nghĩa là tìm nguồn nước mặt chất lượng tốt đưa xuống các tầng chứa nước, nhất là tại các khu vực mực nước bị hạ thấp mạnh như Tân Bình, Hóc Môn... Tại TP.HCM, nước mặt (sông, rạch, hồ, ao...) có chất lượng tốt hầu như không còn. Giải pháp duy nhất là thu gom nước mưa đưa vào bổ sung trữ lượng cho các tầng chứa nước, vừa giúp giảm lượng nước mưa chảy tràn trên mặt đất, góp phần giảm ngập do mưa ở thành phố. Giải pháp thu gom nước mưa từ mái nhà đưa vào các tầng chứa nước đã được nhóm nghiên cứu thuộc đại học Bách khoa TP.HCM thực hiện và đạt được kết quả bước đầu rất tốt.
Nếu tình trạng tụt mực nước ngầm tiếp tục diễn ra, viễn cảnh sẽ là gì?
Nếu tình hình trên vẫn tiếp diễn, chắc chắn nguồn nước cung cấp cho mọi hoạt động của thành phố sẽ gặp trở ngại rất lớn, nhất là khi chất lượng các nguồn nước từ sông Sài Gòn, Đồng Nai ngày càng bị đe doạ bởi sự ô nhiễm từ các khu công nghiệp, khu dân cư dọc theo hai con sông này. Nước dưới đất cạn kiệt, ranh giới mặn vào sâu trong nội thành, mặt đất bị sụp lún, nước bị nhiễm bẩn nặng, nguy cơ mất diện tích do nước biển dâng tăng cao... là viễn cảnh của thành phố nếu chúng ta còn thờ ơ với tình trạng này.
LÊ QUỲNH (THỰC HIỆN)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét