Ngô Nhân Dụng
Ðồng bào biểu tình tuần hành tại Sài Gòn ngày Chủ Nhật vừa qua mang một khẩu hiệu rất gợi hình: Trung Quốc To Xác Xấu Bụng! Ðó là một cách dịch bằng hình ảnh rất cụ thể hai chữ Bá Quyền.
Bắt chước lối nói bình dân đó, có thể mô tả tình trạng kinh tế của Trung Quốc bằng một hình ảnh: Xác To, Bụng Xấu.
Xác To: Sản lượng kinh tế của Trung Quốc đứng hàng thứ nhì trên thế giới, và trong vài ba thập niên nữa sẽ lên hàng thứ nhất. Một con số nổi bật là số dự trữ ngoại tệ. Vào Tháng Ba, số ngoại tệ dự trữ tại Ngân Hàng Trung Ương ở Bắc Kinh (tên chính thức là Nhân Dân Ngân Hàng) đã lên tới 3,000 tỷ đô la Mỹ, tăng gần một phần tư trong 12 tháng.
Bụng Xấu: Kinh tế Trung Quốc đang bị một “mối họa tâm phúc,” tiếng ta gọi là đau bụng, một chứng đau bụng kinh niên, ngày càng trầm trọng thêm vì hệ thống tài chánh đang trên đường phá sản với những món nợ khổng lồ không thể thanh toán được! Tình cảnh này không khác gì những đại ngân hàng sụp đổ ở Mỹ vào năm 2007, sau khi cho vay để người ta mua nhà rồi con nợ không trả được. Năm 2008 Tổng Thống Gorges W. Bush đã phải bỏ ra 700 tỷ đô la để cứu, sau khi để cho một anh phá sản! Cơn sốt địa ốc và chứng khoán ở Trung Quốc trầm trọng không thua gì ở Mỹ bốn năm trước. Khi các ngân hàng lâm cảnh vỡ nợ, Hồ Cẩm Ðào hay Tập Cận Bình cũng sẽ phải cứu. Số nợ không đòi được của các ngân hàng thương mại Trung Quốc có thể lớn đến 1,200 tỷ đô la! Trong khi đó, số nợ của Ngân Hàng Nhân Dân cũng đang tăng lên chính vì muốn thu hút ngoại tệ vào trong tay! Tình trạng “nợ xấu” này là hậu quả của cơ cấu kinh tế mất cân bằng và việc cải tổ chính trị chậm chạp. Cho nên ông Ôn Gia Bảo đã phải báo động hai lần là nếu không thay đổi chính trị thì kinh tế sẽ ngưng trệ!
Tóm lại, kinh tế Trung Quốc là hình ảnh một anh to béo vạm vỡ nhưng ruột gan đầy bệnh tật!
Tại sao hệ thống ngân hàng Trung Quốc sinh ra chứng bệnh “Báng” đầy những nợ xấu trong bụng như thế? Nguyên do là chính sách của đảng Cộng Sản Trung Hoa dùng các ngân hàng của nhà nước cho các doanh nghiệp nhà nuớc vay, gọi là “phát tiền” thì đúng hơn, vì các tiêu chuẩn thẩm định tín dụng thường được bỏ qua. Ðặc biệt từ năm 2008, một khối tiền khổng lồ được đổ ra để “kích thích kinh tế.” Chính quyền Trung Quốc không dùng số tiền đó vào việc kích thích người dân tiêu thụ nhưng họ đưa tiền cho các công ty quốc doanh đầu tư thêm, mà phần lớn các vụ đầu tư đó không có lợi. Hậu quả là tỷ lệ lạm phát ngày càng lên cao. Từ năm ngoái Bắc Kinh đã cố chặn bớt số tiền cho vay lại, bằng cách tăng lãi suất; bắt các ngân hàng thương mại phải giữ một số tiền dự trữ cao hơn, năm 2009 giữ 15%, năm nay tăng thành trên 20%.
Nhưng các đảng viên cao cấp đang điều khiển các ngân hàng của nhà nước đã có nhiều cách lách để vẫn tiếp tục cho các doanh nghiệp nhà nước vay tiền với lãi suất thấp do nhà nước ấn định. Một phương pháp là đi vòng quanh, dùng một con đường khác. Họ lập ra những “công ty tín thác” (trust companies), cũng có tiền vô tiền ra nhưng không bị kiểm soát chặt chẽ như các ngân hàng. Các công ty tín thác gọi vốn đầu tư của các đại gia, của các doanh nghiệp nhà nuớc dư tiền mặt, hứa hẹn suất lời cao. Sau đó họ đem tiền cho vay, với một lãi suất cao gấp bội, đưa tiền vào những dự án kinh doanh nhiều rủi ro hơn. Không ai kiểm tra để biết số nợ xấu của các công ty tín thác là bao nhiêu, vì họ không phải báo cáo như các ngân hàng. Theo tuần báo kinh tế Quan Sát ở Trung Quốc, tại thành phố Ôn Châu nổi tiếng là một trung tâm sản xuất đồng hồ, bật lửa và giầy dép cho cả thế giới, có 1000 công ty tín thác hoạt động như vậy. Họ cho chủ nhân các xí nghiệp tư vay với lãi suất cao tới 5% một tháng, tức gần 80% một năm, hàng chục lần lãi suất mà các xí nghiệp quốc doanh vay ngân hàng! Ði vay như vậy đầy rủi ro. Nếu có lúc nào thị trường thế giới ngưng lại không mua hàng nữa vì kinh tế các nơi bị suy thoái; hay vì bị hàng các nước khác, như Ấn Ðộ, Indonesia, Mã Lai cạnh tranh, thì các xí nghiệp tư trên sẽ khó trả được nợ. Số nợ xấu trên toàn quốc sẽ tăng vọt!
Nhưng các ngân hàng của nhà nước còn có nhiều cách khác để có thể tiếp tục cho vay thêm mà vẫn giữ đủ tiền dự trữ theo tỷ lệ 20% mà Ngân Hàng Trung Ương đòi hỏi. Họ đem “bán” các món nợ họ đã cho vay, các công ty tín thác do họ lập ra đứng ra mua. Thế là giảm bớt ngay con số nợ ghi trên sổ sách. Những công ty tín thác con mới gom các món nợ đã mua lại thành từng “bó” rồi chia mỗi bó thành nhiều “dụng cụ đầu tư” nhỏ, giống như các chứng khoán. Ngân hàng mẹ sẽ mua chứng khoán này rồi đem bán lại cho các thân chủ nào muốn được mức lời cao. So với lãi suất trả cho các món tiền ký thác trong ngân hàng thì những món “dụng cụ đầu tư” mới này hấp dẫn hơn nhiều! Công việc gom lại rồi phân chia ra này không khác gì việc các ngân hàng đầu tư ở Mỹ đã làm trong mấy năm trước 2007, họ cũng gom các món nợ địa ốc lại rồi chia ra các đơn vị nhỏ mà đem bán cho các nhà đầu tư khắp thế giới! Hậu quả khi giá nhà xuống đã gây ra cơn khủng hoảng tín dụng đến bây giờ vẫn chưa thuyên giảm.
Năm 2009, chính quyền Trung Quốc đã cấm các ngân hàng và công ty tín thác của họ không được mua đi bán lại với nhau như thế nữa. Ngay lập tức, người ta thay đổi phương pháp. Một ngân hàng sẽ bán các món nợ mình làm chủ cho một ngân hàng khác, ngân hàng thứ hai này bán lại cho một công ty tín thác, rồi công ty tín thác mới gom các món nợ đó lại, chia thành nhiều đơn vị nhỏ bán lại cho ngân hàng thứ nhất. Cứ như vậy, lại tiếp tục vòng quay đưa các “dụng cụ đầu tư” mới tới cho các thân chủ y như hồi trước!
Thủ thuật mua đi bán lại này mang lại lợi lớn. Mỗi công ty tín thác chỉ cần làm công việc trên giấy tờ khi gom các món nợ lại rồi đem chia ra. Họ lấy công bằng một mức lời rất nhỏ, dưới 3%, nhưng nhờ khối lượng lớn nên cũng giầu to! Như công ty Anh Ðại Tín Thác (Yingda International Trust), trong năm 2009 chỉ lấy tiền hoa hồng và tiền công bằng 0.17% (17 phần 10 ngàn) trên số tiền 147 tỷ đồng Nguyên mà họ phụ trách. Nhưng họ đã kiếm được 240 triệu Nguyên (gần 40 triệu Mỹ kim), mà tất cả họ chỉ làm những công việc giấy tờ. Trong năm 2010, các công ty tín thác ở Trung Quốc đã hoán chuyển các món nợ trị giá trên 2,000 tỷ đồng nguyên, tương đương với hơn 300 tỷ Mỹ kim! Những việc ra tiền làm này được dành cho những người “quan hệ tốt” với ban giám đốc các ngân hàng. Chúng giúp các ngân hàng có thể cho vay thêm sau khi đã “bán” các món nợ cũ đi, giúp cho những người có “quan hệ tốt” được đầu tư thu lợi nhiều hơn; tất cả là những món lợi lớn lo cho các người biết đi đúng cửa!
Theo công ty Fitch, chuyên về thẩm định tín dụng (credit-rating) quốc tế thì trong 11 tháng đầu năm 2010 các ngân hàng đã chuyển được 2,500 tỷ đồng Nguyên qua các công ty tín thác. Ngân Hàng Nhân Dân thì cho con số chính thức, chỉ tới 1,600 tỷ Nguyên. Tương tự, Ngân Hàng Trung Ương Trung Quốc báo cáo chỉ có 1.14% các món nợ của các ngân hàng là nợ xấu, nhưng Fitch kiểm tra kỹ hơn thì thấy tỷ lệ nợ xấu lên tới 6%, nếu tính đủ những món nợ mà các cơ quan chính quyền địa phương đi vay.
Tổng số vay nợ trong cả nước Trung Hoa là 48 ngàn tỷ đồng Nguyên trong năm 2010, nếu tính 6% nợ xấu thì cũng tới 2,900 tỷ Nguyên, tương đương với 1,200 tỷ đô la Mỹ, hơn một phần ba số ngoại tệ dự trữ! Công ty Fitch đã hạ thấp điểm tín nhiệm của Trung Quốc trong tháng trước; và đây là lần đầu tiên nước này bị hạ thấp điểm tín dụng kể từ năm 1999 đến nay. Theo phân tích của Fitch thì nếu chính phủ Bắc Kinh muốn đem tiền cứu các ngân hàng như chính phủ Mỹ đã làm năm 2008 thì số tiền chi ra sẽ lớn bằng 30% tổng sản lượng nội địa, tức là hơn 1,600 tỷ đô la Mỹ. Con số đó hơn gấp đôi số tiền 700 tỷ mà Tổng Thống Bush đã dùng để cứu các ngân hàng lớn, mà sau ba năm nhiều ngân hàng Mỹ đã hoàn trả lại, với tiền lãi đầy đủ, chỉ có một số nhỏ bị mất. Còn ở Trung Quốc, nếu nhà nước có đem tiền ra cứu các ngân hàng thì cũng khó đòi lại! Số dự trữ ngoại tệ trên 3,000 tỷ đô la sẽ hao mất một nửa khi tai nạn này xẩy ra!
Nhưng số tiền dự trữ đó, tự nó là một hiện tượng xấu, chính nó gây ra những tai nạn khác trong nền kinh tế Trung Quốc. Ngân Hàng Trung Ương Trung Quốc thu vào một số tiền khổng lồ như thế chỉ vì họ muốn giữ giá trị đồng Nguyên thấp, sợ nếu nó lên giá so với đô la Mỹ thì hàng xuất cảng của họ sẽ tăng giá, khó bán. Ngân Hàng Trung Ương mua các ngoại tệ đem vào nước Tầu, do các xí nghiệp của họ xuất cảng hoặc do các nhà đầu tư ngoại quốc đem vào. Khi đem tiền vào, người ta đem đổi, mua lấy nhân dân tệ mà dùng, nhiều người mua sẽ khiến đồng tiền nước Tầu lên giá. Ðể ngăn lại, hễ có đồng Mỹ kim, đồng Yen hay Euro nào qua cửa ải là Ngân Hàng Trung Ương mua vét cho hối suất không lên. Lấy tiền đâu để đi mua vét như vậy? Họ có thể vay trong công chúng, hoặc sử dụng quyền in đồng Nguyên để dùng, cứ mỗi đồng in ra lại ghi vào sổ sách như một món nợ mới!
Có hai hậu quả trong công việc in tiền để mua ngoại tệ này. Một là Ngân Hàng Nhân Dân “nêu gương xấu” chuyên làm ăn thua lỗ! Từ bao năm nay họ liên tiếp đem một đồng tiền đang trên đà lên giá (đồng Nguyên tăng giá gần 5% trong hai năm 2009, 2010) đổi lấy một đồng tiền đang dần dần xuống giá (Mỹ kim), cứ thế hết năm này sang năm khác. Chính quyền Trung Quốc đã kêu gọi chính phủ Mỹ hãy giữ vững giá đồng đô la, nhưng Mỹ bỏ ngoài tai vì chính sách của họ là hạ giá đồng đô la để bớt nhập cảng, tăng xuất cảng! Có nhà kinh doanh nào dại dột cứ đem một món hàng đang lên giá đổi lấy một món hàng liên tục xuống giá, hết năm này sang năm khác hay không?
Hậu quả thứ hai là chính sách in thêm tiền để thu mua ngoại tệ này góp phần sinh ra lạm phát. Muốn ngăn lạm phát phải tăng lãi suất. Nhưng mỗi lần tăng lãi suất thì chính Ngân Hàng Trung Ương này phải trả tiền lãi cao hơn trên những món nợ mà họ vay để lấy tiền đi mua ngoại tệ! Chính thức, tổng số nợ của nhà nước Trung Quốc chỉ lớn bằng 17% tổng sản lượng nội địa. Nhưng khi tính hết các số nợ không chính thức thì các công ty tài chánh quốc tế đoán tỷ lệ thật lên tới 160% GDP.
Cuối cùng thì ai sẽ trả các món nợ và tiền lãi cho Ngân Hàng Nhân Dân? Chính là Nhân Dân Trung Hoa! Dân chúng sẽ “đóng góp” vào việc trả nợ qua nhiều hình thức: Thuế má cao, lương bổng thấp, tiền lời rất thấp khi gửi ngân hàng (hiện nay lãi suất gửi đã là số âm khi tính tới lạm phát). Dân chúng bị ép, thắt lưng buộc bụng ra sao họ cũng phải chịu. Nhưng hiện tượng trên lại gây một hậu quả khó khăn cho chính đảng cầm quyền. Vì khi dân chúng bị lấy bớt tiền thì họ cũng bớt tiêu thụ! Có lúc trong tổng sản lượng nội địa của Trung Quốc có tới 60% là do dân tiêu thụ; ngày nay tỷ lệ tiêu thụ chỉ còn là 36% GDP. Trong khi đó, đầu Tháng Ba năm nay chính ông Ôn Gia Bảo mới nói đảng Cộng Sản Trung Hoa đang chuyển hướng chính sách kinh tế, muốn dân chúng tiêu thụ nhiều hơn thay vì hoàn toàn tùy thuộc việc xuất cảng và bị tình hình kinh tế thế giới lôi cuốn!
Tóm lại, phải thấy là nền kinh tế Trung Quốc hiện mang hình ảnh một anh khổng lồ mà trong ruột gan đầy bệnh tật. Ai mang bệnh Báng thì biết, cái bụng cứ phì lên, trông thật là Xác To. Nhưng nhìn vào sâu mới thấy Bụng Xấu, rất xấu.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét