Thứ Tư, 29 tháng 6, 2011

TỘI ÁC CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG BIẾN CỐ LÀNG BA CHÚC, AN GIANG THÁNG 4/1978

NGUYỄN VĨNH LONG HỒ
PHẦN I
THÁNG 4 NĂM 2009. Kỷ niệm đúng 31 năm, ngày dân làng BA CHÚC, tỉnh An Giang bị thảm sát vào tháng 4 năm 1978. Hơn 3.157 đồng bào ruột thịt bị tàn sát dã man đã chìm vào trong quên lãng. Tôi xin mở lại hồ sơ tố cáo tội ác bọn CSVN đã nhúng tay trong biến cố ghê tởm nầy, để đồng bào trong và ngoài nước nhận định. Xin đa tạ quý vị!
Vào cuối tháng 5 năm 1999. Tôi có nhận được lá thư đề ngày 21 tháng 5 năm 1999 của ông TRẦN H. (xin dấu tên) – cựu sĩ quan QĐVNCH – sinh quán tại xã BA CHÚC, tố cáo tội ác bọn CSVN giết người tập thể tại làng BA CHÚC, tỉnh AN GIANG. Từ đó, tôi phối kiểm các tài liệu trong và ngoài nước, tình hình biên giới phía Tây Nam 1978 – 1979 và các dữ kiện do những nhân chứng còn sống tại Hoa Kỳ cung cấp. Và tôi xin mở lại hồ sơ vụ án, đưa “sự cố” nầy ra trước ánh sáng để CĐVNHN và đồng bào trong nước biết thêm về tội ác tày trời, giết người tập thể còn dã man, tàn bạo và khủng khiếp hơn cả TẾT MẬU THÂN 1968. Nạn nhân gồm cả đàn bà, trẻ con Việt Nam lẫn Cam Bốt bị thảm sát tại các CHÙA, TRƯỜNG HỌC tại làng Ba Chúc cách biên giới VIỆT – MIÊN khoảng 7 cây số và chỉ trong vòng một đêm 18 tháng 4 năm 1978. Cái dã man và vô nhân đạo của bọn Lãnh đạo Đảng CSVN đã đem những bộ hài cốt của những nạn nhân do chúng thảm sát, đem trưng bày trong các hộp kính để gây ảo giác căm thù giữa hai dân tộc VIỆT NAM – KAMPUCHEA.

VỊ TRÍ NHÀ MỒ BA CHÚC
Căn cứ vào hình ảnh và sự mô tả trên mạng saigonnet ngày 4/ 21 /2004: Nhà mồ Ba Chúc, Chùa Phi Lai và Chùa Tam Bửu là những di tích được nhà nước công nhận là di tích vào năm 1980 là một địa điểm ghi dấu tội ác man rợ của bọn diệt chủng Pôn – Pốt qua 11 ngày (từ 18/ 4/ 1978 đến ngày 29/ 4/ 1978) đã xâm lược và sát hại hàng ngàn người dân xã Ba Chúc. Nhà mồ Ba Chúc có hình lục giác, mỗi trụ cột đỡ mái nhà được kiến trúc hình tượng như bàn tay đẫm máu, đang vươn thẳng lên. Bên trong nhà mồ là một khung hộp bằng kính tám cạnh, chứa đựng 1.159 bộ hài cốt được phân thành nhiều loại khác nhau như: độ tuổi, giới tính…Nhà mồ được xây dựng giữa hai ngôi chùa Phi Lai và Tam Bửu, đây là hai ngôi chùa do các tín đồ của đạo Hiếu Nghĩa dựng lên và cũng chính nơi đây đã trở thành nơi chứng kiến những tội ác của chúng và những chứng tích đó vẫn còn in dấu cho đến ngày nay.
Sau khi phối kiểm và phân tách “Câu chuyện làng BA CHÚC ở biên giới MIÊN – VIỆT” của ông HOÀNG QUÝ (mạng lenduong. net ngày 5/02/2004), chi tiết về cụm nhà mồ BA CHÚC kể trên và thơ tố cáo của ông TRẦN H. Một điểm trùng hợp rất quan trọng là ông TRẦN H, và ông HOÀNG QUÝ đều xác nhận là tất cả nạn nhân đều bị thảm sát tại CHÙA VÀ TRƯỜNG HỌC .
Ông TRẦN H. viết: “… CSVN đưa sư đoàn 30 CSBV án ngữ dầy đặc dọc biên giới Miên Việt tỉnh Châu Đốc cũ. Chiều đến thì bọn cán bộ và bộ đội Cộng sản bắt dân vào CHÙA VÀ TRƯỜNG HỌC ngủ để chúng bảo vệ. Nửa đêm, dân ngủ mê, chúng giả bộ đội Miên tấn công vào chùa và trường học bằng lựu đạn, cổng ngoài khóa chặc. Sau đó, chúng nổi lửa đốt sạch làm hằng ngàn dân vô tội phải chết oan uổn dưới bàn tay vô thần của CSVN. Nhứt là tại làng Ba Chúc thuộc huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang, có trên 3.000 người bị chúng viết tập thể. Nay chúng cho xây một ngôi nhà kiến để chứa đống xương vô định chất cao bằng đầu…(ngưng trích)
Ông HOÀNG QUÝ viết: “…Thời cuộc đã biến chuyển khôn lường, sau đó chính 2 lực lượng anh em nầy quay mũi súng vào nhau, lực lượng vũ trang của Khờ me đỏ đã tấn công vào làng Ba Chúc, cách biên giới khoảng 4 dậm, vào ngày 18 / 4/ 1978…Tổng cộng có 3.157cả người Việt Nam lẫn Cam bốt bị thảm sát tại các CHÙA VÀ TRƯỜNG HỌC tại Việt Nam. Những cuộc tấn công khác tương tự như trường hợp nầy là những lý do mà CS VN nêu lên để xua quân tiến chiếm Cam Bốt vào cuối năm đó…(ngưng trích).
Trong bài viết “WHEN THE KHMER ROUGE CAME IN VIETNAM” của James Pringle đăng trong International Herald Tribune, số ra ngày Jan 7, 2004 có thuật lại lời của chứng nhân, bà Hà Thị Nga nói: “Trong một ngôi chùa, tôi thấy 40 nạn nhân sợ hãi trốn dưới bàn thờ, trước khi bị giết bằng lựu đạn.” (In a temple, I saw where 40 terrified victims hid under the alter before being killed by grenades). Bà Hà Thị Nga có phải là một người được chánh quyền dàn dựng đưa ra trả lời phóng viên James Pringgle? Tại sao bà biết con chính xác là 40 người trốn dưới bàn thờ? Trừ phi họ đúng xếp hàng cho bà điểm danh trước khi chun dưới bàn thờ. Tôi là người sống ở miền Tây, thăm viếng nhiều chừa chiền, không một ngôi chùa nào có một cái bàn thờ khổng lồ có sức chứa 40 người trốn dưới đó. Tập trung trốn dưới bàn thờ, chẳng khác nào cho bọn Khmer Đỏ biết: “Lạy ông con trốn ở bụi nầy!”
Một điểm trùng hợp rất quan trọng là cả hai ông Trần H. và Hoàng Quý và chứng nhân đều xác nhận là tất cả các nạn nhân đều bị thảm sát tại CHÙA & TRƯỜNG HỌC. Và thời gian xảy ra vào ngày 18/ 4/ 1978 và không thấy ông Hoàng Quý nói cuộc thảm sát kéo dài đến ngày nào, giống như chi tiết về cụm nhà mồ Ba Chúc kéo dài đến 11 ngày từ 18/ 4/ 1978 đến ngày 29/ 4/ 1978. Tìm hiểu những nguyên chính đưa đến việc bọn CSVN đã tắm máu dân làng Ba Chúc như sau:
TÌNH HÌNH NỘI BỘ VIỆT NAM – KAMPUCHEA SAU 1975
Theo sự tiết lộ của Hoàng Tùng – Tổng biên tập báo Nhân Dân – và là Ủy viên BCT/TƯ Đảng CSVN: Bắc Bộ Phủ đã có ý đồ chiếm đóng Cam Bốt từ năm 1970 – 1972. Cuối năm 1976, Đại Hội IV Đảng Lao Động đổi thành Đảng CSVN dưới sự giám sát của lý thuyết gia MIKHAI A. SUSLOV – Trưởng phái đoàn Sô Viết – thì hầu hết các Ủy viên Bộ Chính Trị đã nối đuôi Lê Duẩn thần phục Mạc Tư Khoa. Đại hội IV của Đảng CSVN chấp nhận đề án của Lê Duẩn xúc tiến việc thành lập LIÊN BANG ĐÔNG DƯƠNG bằng cách thuyết phục và nếu cần dùng áp lực quân sự để buộc Cam Bốt và Lào gia nhập. Sau Đại Hội IV, Lê Duẩn và BCT/TƯ/Đảng CSVN nhận định rằng: Việt Nam nằm trong quỹ đạo của Liên Sô là đối lập với Trung Quốc và sự liên kết giữa Trung Quốc và Cam Bốt sẽ áp lực quân sự nặng nề tại vùng biên giới phía Tây Nam.
CUỘC XUNG ĐỘT VŨ TRANG VÙNG BIÊN GIỚI PHÍA TÂY NAM
KAMPUCHEA TẤN CÔNG VIỆT NAM LẦN THỨ NHẤT NĂM 1977
Tháng 3 năm 1977: Ieng Sary – Ngoại trưởng Khmer Đỏ – sang Bắc Kinh nối lại quan hệ thân thiết cũ. Trong buổi tiếp tân có Lý Tiên Niệm – Phó Thủ Tướng – và Tướng Vương Thăng Long – Tổng Tham mưu phó QĐNDTQ – khoản đãi phái đoàn Kampuchea cho thấy sự hợp gắn bó giữa hai nước.
Tháng 4 năm 1977: Trong buổi tiếp tân tại Tòa Đại Sứ Kampuchea, Ngoại trưởng Hoàng Hoa công khai tuyên bố: “Nước Kampuchea đang bị kẻ thù phá hoại và Trung Quốc sẽ sát cánh với những dân tộc nhỏ yếu chống lại những hành động can thiệp và gây hấn của các lân bang”. Nhận được sự hậu thuẩn của Trung Quốc. Hai tuần sau, đúng vào ngày Việt Nam tưng bừng kỹ niệm năm thứ hai “Mùa Xuân Đại Thắng 1975”. Quân đội Kampuchea bất thần mở cuộc tấn công qui mô vào những làng xã và những thị trấn dọc biên giới tỉnh An Giang, và sau đó rút về bên kia bên giới.
KAMPUCHEA TẤN CÔNG LẦN THỨ HAI VÀO TÂY NINH
Ngày 27 tháng 9 năm 1977: Tên đồ tể Pôn – Pốt lên đài phát thanh đọc diễn văn dài 5 tiếng đồng hồ, chính thức xác nhận vai trò lãnh đạo của mình và tổ chức ANGKA là Đảng Cộng Sản Kampuchea. Một ngày sau khi ra mắt. Pôn – Pốt lên đường đi Bắc Kinh và Bình Nhưỡng. Lần đầu tiên đi công du với tư cách là Chủ tịch Đảng và Thủ Tướng. Pôn – Pốt được đón tiếp trọng thể. Cờ và biểu ngữ giăng đầy Thiên An Môn.
Ba ngày trước đó, để chứng tỏ quyết tâm chống Việt Nam của mình đối với Trung Quốc. Pôn – Pốt ra lệnh cho Quân Khu Đông tấn công vào lãnh thổ Việt Nam thuộc tỉnh Tây Ninh. Việt Nam tự hạn chế, không cho quân đội vượt biên phản công, đồng thời cách chức Tướng Tư lệnh quá khích TRẦN VĂN TRÀ và Tướng LÊ ĐỨC ANH thay thế. Trong bài viết The continuing conflict in Southeast Asia của David Miller đăng trong cuốn THE VIETNAM WAR ghi nhận: “Nhiều đồng bào địa phương đã chạy thoát, nhưng Hà Nội quả quyết người Kampuchea thảm sát 2.000 thường dân” (Many local residents fled, but an official Hanoi communique alleged that kampucheans had massacred some 2,000 civilians).
Sau đó, một mặt Đảng CSVN gởi điện văn chúc mừng lễ ra mắt Đảng CS Kampuchea, một mặt bí mật gởi Phan Hiền sang Bắc Kinh nhờ Trung Quốc dàn xếp cho gặp phái đoàn Kampuchea. Cuộc tiếp xúc không đi đến đâu. BCT/ ĐẢNG CS Trung Quốc đều nhất trí ủng hộ Khmer Đỏ. Trung Quốc bắt đầu chở vũ khí và chiến cụ ồ ạt tới cảng Komphong Som để trang bị tận răng cho quân đội kampuchea. CSVN buộc phải đứng hẳn về phía Liên Sô tìm cách phản công chống lại Khmer Đỏ quyết liệt hơn. Tập đoàn Lãnh đạo CSVN đã sai lầm một chiến lược quan trọng: “Nước xa không cứu được lửa gần”.
QUÂN ĐỘI VNCS PHẢN CÔNG KAMPUCHEA CUỐI NĂM 1977
Vào những ngày cuối năm 1977. Lực lượng vũ trang QĐND/VNCS mở những trận tấn công thăm dò vào sâu trong lãnh thổ Kampuchea. Quan hệ ngoại giao giữa hai nước bị cắt đứt và công khai hóa tranh chấp lãnh thổ và hai bên điều động thêm lực lượng vũ trang tăng cường hệ thống phòng thủ dọc biên giới. Nhưng, phía Việt Nam bị Quốc tế tố cáo và lên án xâm lăng Kampuchea, quân đội viễn chinh VNCS buộc phải rút về nước vào ngày 6 tháng 1 năm 1978.
KAMPUCHEA TẤN CÔNG LẦN THỨ 3 VÀO ĐẦU NĂM 1978
Đầu tháng giêng 1978: Tại vùng biên giới cực Nam. Các đơn vị thuộc Sư Đoàn 2 và 210 của Quân Khu Tây Kampuchea đã tấn công và chiếm đóng các xã Phú Cường, Khánh An, Khánh Bình và các huyện Hồng Ngự và Hà Tiên thuộc lãnh thổ Quân Khu IX Việt Nam. Và đây là cuộc tấn công vào lãnh thổ Việt Nam lần cuối cùng, vì họ sẽ chẳng còn cơ hội nào vượt biên tấn công vào Việt Nam nữa. Tướng TRẦN NGHIÊM nguyên là Tư Lệnh Phó của LÊ ĐỨC ANH. Sau khi Lê Đức Anh thay Trần văn Trà. Tướng Trần Nghiêm được đề bạt lên làm Tư lệnh Quân Khu IX, chịu trách nhiệm điều động 3 sư đoàn chính quy cơ hữu, gồm các Sư đoàn 4, 8 và 330 cùng với 2 trung đoàn chủ lực cơ động tỉnh Hậu Giang và Đồng Tháp. Sư đoàn 341 do tướng Vũ Cao làm Tư Lệnh được điều từ Quân Khu VII đến tăng phái cho Q.Khu IX cùng với sự yểm trợ của không quân, pháo binh, thiết giáp…với lực lượng áp đảo và hùng hậu như vậy, mà phải mất 2 tháng phản công mới đánh bật sư đoàn 2 và 210 của Kampuchea ra khỏi biên giới và tái chiếm lại lãnh thổ đã mất.
Đầu tháng 3 năm 1978: Tình hình biên giới phía Tây Nam hoàn toàn yên tỉnh. Sư đoàn 341 được trả về Quân khu VII sau khi hoàn thành nhiệm vụ. Tướng Trần Nghiêm tái phối trí 3 sư đoàn 4, 8 và 330 cùng hai trung đoàn cơ động tỉnh Hậu Giang và Đồng Tháp vào nhiệm vụ phòng thủ diện địa. Riêng sư đoàn 330 được chỉ định thành lập tuyến phòng thủ an ninh lãnh thổ huyện TRI TÔN.
KAMPUCHEA KHI SƯ ĐOÀN 2 VÀ 210 RÚT VỀ BÊN BIÊN GIỚI
Bắt đầu từ tháng năm 1978 và những tháng sau đó. Cuộc thanh trừng nội bộ ở Quân Khu Đông càng ngày càng trở nên gây gắt và lên đến cao điểm vào ngày 24 tháng 5 năm 1978, lực lượng của KE PAULK – Bí thư Khu ủy Trung tâm của Khmer Đỏ – thuộc Quân khu Trung Ương kéo đến SOUNG, bao vây tổng hành dinh của Quân khu Đông, bắt giam tất cả sĩ quan chỉ huy và nhiều cuộc chạm súng đã xảy ra giữa đôi bên. Sau cuộc thanh trừng, sư đoàn 4 coi như bị xóa sổ, các sư đoàn 3, 5, 280 còn lại bị suy yếu hẳn.
BCT/TƯ Đảng CSVN không bỏ lở cơ hội ngàn vàng, triệt để khai thác nhược điểm của địch là sự xâu xé nội bộ và mâu thuẩn hàng ngũ của Khmer Đỏ theo đúng sách lược của Lenine: “Phải chộp ngay cơ hội chia rẽ của địch”, bằng cách ráo riết chuẩn bị chuẩn bị “tâm lý quần chúng” và “dư luận Quốc tế” . Rõ ràng, bọn Đảng CSVN đã đạo diễn tấn tảm kịch cực kỳ dã man, tàn bạo và ghê tởm: tắm máu 3.157 đồng bào vô tội, đa số tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo trong đêm 18 /4/ 1978 rồi đổ tội cho bọn đồ tể Khmer Đỏ gây ra. Độc chiêu “ném đá dấu tay”, rồi dở trò “mèo khóc chuột” của bọn CSVN đã thành công trong âm mưu tạo ra kẻ thù Khmer Đỏ bằng xương bằng thịt để kích động lòng căm thù chủng tộc Việt Nam – Kampuchea, rồi triệt để khai thác sức mạnh của lòng căm thù của quần chúng vào mục tiêu chánh trị và quân sự để chuẩn bị xâm lăng Kampuchea.
Tất cả bộ máy chiến tranh tâm lý của bọn CSVN được động viên vào việc tuyên truyền rầm rộ. Những cuộc biểu tình, hội thảo diễn ra khắp nơi, các đài phát thanh, phát hình trong nước mở tối đa công xuất lên án bọn diệt chủng Pôn Pốt đã xâm lược và sát hại hàng ngàn người dân xã Ba Chúc để tranh thủ dư luận Quốc tế, có chứng cớ hẳn hòi, chớ không phải tố cáo vu vơ như lần quân Khmer Đỏ tấn công vào lãnh thổ tỉnh Tây Ninh thảm sát 2.000 thường dân. Quân đội CSVN xua quân tấn công Kampuchea chỉ vì lý do tự vệ chánh đáng, chớ không phải xâm lăng Kampuchea như đã từng bị lên án trước đó.
NGÀY 15/ 6/ 1978, chiến dịch tấn công Kampuchea mở màng. Các sư đoàn chính quy 7, 9 và 341 cùng với các đơn vị yểm trợ hùng hậu tràn qua biên giới Việt – Miên, chiếm đóng một phần lãnh thổ sâu trong nội địa Kampuchea từ 10 đến 40 km, trong đó có quận Prasaut. Lúc đó nhằm mùa mưa. Kampuchea tăng cường thêm nhiều sư đoàn từ trong nội địa ra biên giới để phản công. Từ Prasaut, quân xâm lược CSVN phải lùi về Chipru…
DẤU ĐẦU LÒI ĐUÔI
6 ĐIỂM CHỨNG MINH TỘI ÁC CỦA CSVN TRƯỚC
DƯ LUẬN QUỐC TẾ VÀ ĐỒNG BÀO TRONG & NGOÀI NƯỚC

• ĐIỂM MỘT: Không thấy chánh quyền địa phương đề cập đến con số thiệt hại về nhân mạng cũng như tài sản của nhân dân sau 3 lần lực lượng Khmer Đỏ tấn công vào lãnh thổ Việt Nam, đặc biệt là 2 tháng đầu năm 1978 là thời gian quần thảo dữ dội giữa 4 sư đoàn + 2 trung đoàn cơ động CSVN để đánh bật sư đoàn 2 và 210 của Kampuchea ra hỏi biên giới. Điều đó đã chứng minh rằng: Đồng bào MNVN đã tích lủy quá nhiều kinh nghiệm “chạy giặc”. Giặc Tây đi bố, giặc Việt Minh CS giết người đoạt của, giặc Miên nổi dậy “cáp duồn”… nên phản ứng của họ vô cùng bén nhạy. Mỗi khi có biến động là nhà nhà báo động bằng đủ mọi phương tiện như gõ mõ, thùng thiếc, gióng trống, khua chiên, nồi niêu, xoong chảo…để kịp thời bồng bế con cái chạy giặc. Họ không bao giờ chịu nằm yên trong nhà, ngoan ngoãn chờ bọn Khmer Đỏ đến lùa họ đi. Và một điều chắc chắn là khi họ nhận diện binh lính của Khmer Đỏ, họ sẽ chạy bung ra, chạy bán sống bán chết giống như hồi Tết MẬU THÂN 1968, dân MNVN chạy giặc Việt Cộng, dễ dầu gì bọn Khmer Đỏ có đủ lực lượng tập trung dân làng Ba Chúc vào các CHÙA & TRƯỜNG HỌC một cách dễ dàng để tàn sát tập thể. Hơn nữa, địa thế làng Ba Chúc dưới chân núi TƯỢNG và bên kia là núi DÀI, một địa thế lý tưởng cho đồng bào lẫn trốn dễ dàng.
• ĐIỂM HAI: Những vị cao niên nào sống ở Miền Tây Nam Bộ thuộc các tỉnh Châu Đốc, Vĩnh Long, Trà vinh, Sóc Trăng chắc chưa quên những cuộc nổi dậy bất thần đầy chết chóc của những đồng bào Việt gốc Miên sống trong các sóc vùng sâu. Và danh từ “Miên dậy” là tiếng báo động khẩn cấp đồng bào Việt gọi nhau chạy lánh nạn. Những người Miên từ trong các sóc đồng loạt ùa ra, tay cầm phảng, cuốc xẻng, rựa…tay kia cầm chai rượu “phất xạ” (uống rượu), họ ào ạt xông vào các xóm làng của đồng bào ta như cơn gió lốc, rượt đuổi dân làng chạy tán loạn. Họ vừa chạy vừa thét : “Dơ! Cáp duồn! Bòn ơi!…” (Nào! Giết tụi Việt! Bây ơi!…” Trong cơn say rượu, say máu, họ gặp đàn bà chém theo đàn bà, trẻ con đâm theo trẻ con…gặp đâu giết đó. Bọn diệt chủng Khmer Đỏ cũng thế! Một khi tràn qua biên giới Việt Nam, họ đâu có lòng nhân đạo đến độ phải tập trung đồng bào ta vào các chùa chiền để đọc kinh cầu nguyện trước khi hành quyết, hoặc dồn trẻ con vào các trường học vì sợ trẻ chết xuống âm phủ thành những con ma mù chữ?
• ĐIỂM BA: Nếu như muốn cưỡng bách trên 3, 4 ngàn người sống rải rác trong làng Ba Chúc với một địa thế hiểm trở như thế, cách biên giới Việt – Miên khoảng 7 km và cách con kinh Vĩnh Tế khoảng 5 km. Chúng tôi nghĩ, bọn diệt chủng Pôn Pốt phải huy động bao nhiêu sư đoàn Khmer Đỏ mới làm nổi việc đó? Và làm thế nào những sư đoàn nầy lọt qua tuyến phòng thủ biên giới Tây Nam dầy đặc của 3 sư đoàn chính quy 4, 8 và 330 của QĐND và 2 trung đoàn cơ động tỉnh với lực lượng yểm trợ hùng hậu gồm: thiết giáp, pháo binh và không quân đóng tại căn cứ Trà Nóc? Và hơn thế nữa, bọn Khmer Đỏ làm thế nào kéo dài cuộc thảm sát dân làng Ba Chúc trong suốt 11 ngày đêm mà không có cuộc chạm súng nào với các đơn vị chủ lực CSVN phòng thủ biên giới kể trên, trừ phi các đơn vị nầyï nhận được lệnh của BCT/ T.Ư/ Đảng “án binh bất động”, để mặc cho bọn Khmer Đỏ mặc sức giết đồng bào ta? Không có tổn thất về nhân mạng được ghi nhận cho cả hai phía Khmer Đỏ và bộ đội biên phòng CS ( có đánh đấm gì đâu mà có tổn thất chứ!), chỉ có trên 3.000 đồng bào bị thảm sát mà thôi. Tưởng cũng xin nhắc lại: Trước 30/4/1975, Quân Đoàn IV và Quân khu 4 chỉ có 3 sư đoàn chủ lực 7, 9 và 21 / BB và nếu như 3 sư đoàn nầy được phối trí, tập trung vào nhiệm vụ phòng thủ biên giới phía Tây Nam thì chưa chắc một con chuột chui qua lọt, đừng nói chi một đơn vị nhỏ của quân xâm lược CSBV.

• ĐIỂM BỐN: Thời điểm bọn Khmer Đỏ thảm sát dân làng Ba Chúc từ 18 /4 /1978 đến 29 /4 /1978 lại càng không hợp lý. Vì trong thời gian đó, ở bên kia biên giới, cuộc thanh trừng nội bộ đang xảy ra gay gắt và quyết liệt ở Quân Khu Đông sắp lên đến cao điểm. Làm sao Pôn Pốt có thể điều động lực lượng Khmer Đỏ vượt biên tấn công Việt Nam?
• ĐIỂM NĂM: Người nông dân Việt Nam nói chung và miền Tây Nam Bộ nói riêng, họ chỉ di dân vào các điểm tập trung dưới sự bảo vệ an ninh của quân đội VNCH. Hệ thống “Ấp chiến lược” được thiết lập trong thời chiến tranh là một thí dụ cụ thể. Điều nầy phải là cán bộ địa phương và bộ đội CSVN mới có thể tập trung dân làng Ba Chúc vào các CHÙA & TRƯỜNG HỌC đã chỉ định sẵn theo kế hoạch để ra tay tàn sát đồng loạt. Và sư đoàn 30 (tên gọi tắt của đồng bào địa phương) chính là sư đoàn 330 chỉ định cuộc giết người tập thể nầy vào đêm 18 /4 /1978. Vì SĐ 330 được thành lập tại MNVN trước khi tập kết ra Bắc do Tướng Đồng văn Cống làm Tư lệnh thì dân làng Ba Chúc mới có lòng tin đi theo chúng vào các chùa và trường học để được chúng bảo vệ an ninh. Sau đó, chúng khóa chặt cửa lại. Chờ khi đem đến, bộ đội CSVN đội lốt quân Khmer Đỏ kéo đến giết sạch, đốt sạch đúng như lời tố cáo của ông Trần H. và đó sự thật không thể chối cải. Hiện nay, một vài nhân chứng còn sống sót như bà Trần thị C, ông Nguyễn văn Ch…và một nhân chứng quan trọng là một thầy giáo cấp 2 ở kinh Vĩnh Tế họ Trần (xin dấu tên) đã dám nói lên sự thật với đồng bào nên bị sa thải khỏi nhiệm sở và bị tên Giám Đốc Công An tỉnh An Giang – bí danh Sáu Nhỏ – bắt giam 2 năm để cảnh cáo.
• ĐIỂM SÁU: Tại sao bọn CSVN mở cuộc thảm sát tập thể dân làng Ba Chúc, cách biên giới đến 7 km? Trước năm 1975, có ai đặt chân lần đầu đến Ba Chúc dưới chân làng Ba Chúc dưới chân núi Tượng và bên kia núi Dài, đều ngạc nhiên trước hết là nhìn đâu đâu cũng thấy chùa và đa số chùa nào cũng giữ theo truyền thống là tường xây bằng gạch nhưng mái lợp lá. Riêng tại làng Ba Chúc có khoảng 15.000 tín đồ Bửu Sơn kỳ Hương thờ vị Giáo Tổ Đức Phật Thầy Tây An, lấy giáo lý PGHH do Đức Huỳnh Giáo Chủ đề xướng: Tứ Ân, Bát Nhẫn và tám Điều Răn của Đức Thầy để tu thân. Điều nầy chúng minh dã tâm của bọn CSVN vừa tiêu diệt tín đồ PGHH, vừa đốt luôn các chùa chiền, nơi tín đồ PGHH thờ phượng đấng thiêng liêng, rồi đổ tội diệt chủng cho bọn Khmer Đỏ đã biến mất về phía bên kia biên giới, thế là xong! Những việc giết người tập thể là sách lược của bọn CSVN, có tính toán tinh vi và được thực hiện từng bước theo kế hoạch được dàn dựng hẳn hoi. Đây là độc chiêu “nhất tiển hạ song điêu” của bọn CSVN.
PHẦN II
Nội dung và chi tiết PHẦN I kể trên, tôi đã đúc kết lại thành một bài viết với chủ đề: “Mở lại hồ sơ CSVN thảm sát 3,157 đồng bào làng Ba Chúc, tỉnh An Giang đêm 18/ 4/ 1978” đã được đưa lên mạng Người Việt Online ngày 3 tháng 5 năm 2004 lúc 2:59 PM.
Sau khi bài viết nầy đã được đưa lên mạng thì đúng 7 ngày sau, ông LỤC TÙNG từ trong nước, viết một phóng sự – ghi chép với tựa đề “BA CHÚC NGÀY 16 THÁNG 3…” đưa lên báo Lao Động số 131, ngày 10 tháng 5 năm 2004. Xin tóm lược vài điểm chính của bài báo nầy:
• Nơi đây, đúng 3 năm sau ngày thống nhất đất nước, bè lũ diệt chủng Pôn – Pốt đã xua quân vượt biên giết 3.574 thường dân bằng những hình thức dã man, như: Người lớn, chúng dùng búa đập đầu, dao cắt cổ; trẻ em thì nắm hai chân xé ra, hoặc đập đầu vào gốc cây, nếu chưa chết thì quăng lên cao, sau đó vươn lưỡi lê lên hứng. Riêng với phụ nữ, trước khi dùng lưỡi lê xẻo vú, hay thọc cây tầm vông, cọc trâm bầu vào cửa mình cho chết, chúng lột quần áo ra rồi thay nhau hãm hiếp tập thể”. Để tưởng nhớ những người dân vô tội, hằng năm vào ngày 16 tháng 3 A.L, chính quyền và nhân dân nơi đây tổ chức ngày giỗ hội. Giỗ hội lần thứ 26 năm nay nhằm ngày 4. 5. Tôi (Lục Tùng) lật sổ tay, đoạn ghi lại số liệu của ỦY BAN TRUNG ƯƠNG ĐIỀU TRA TỘI ÁC CHIẾN TRANH XÂM LƯỢC trong 11 ngày đêm từ 14 đến 25/ 4 /1978. bè lũ Pôn – Pốt đã sát hại tổng cộng 3.574 thường dân.
• Trên đường dẫn chúng tôi (Lục Tùng) đến nhà bà Hà thị Nga, một trong số 3 người sống sót trong tầm diệt chũng, ông Trần Văn Nhi – nguyên Phó Chủ Tịch thị trấn Ba Chúc – không nén được xúc động nói: “Tôi đã đi qua hai cuộc chiến tranh, đánh Pháp, đuổi mỹ, nhưng chưa bao giờ thấy cảnh người ta dùng súng đạn để giết hơn 200 người dân đang cầu nguyện trong chùa như lần ấy…” Theo lời ông Nhi, sau nạn diệt chủng Ba Chúc giống như một bãi đất hoang tàn, toàn xã có 3.574 người bị sát hại, trong đó có 100 hộ bị giết sạch…
• Ông Lục Tùng mô tả ngày giỗ hội như sau: “Hôm nay ngày giỗ hội 16 tháng 3…”, vị chánh bái vừa cất giọng, cả không gian tỉnh lặng đột nhiên vỡ tung bởi tiếng nấc nghẹn ngào xen lẫn những tấm thân ngã quỵ…”(ngưng trích). Nhưng, tấm hình ghi lại một góc nhà mồ ngày giỗ hội thật tương phản, chỉ đếm được có 7 người đứng bên cạnh khung hộp kính hình bát giác, chứa đựng 1.159 bộ hài cốt của nạn nhân.
LỜI BÀN:
Theo lời kể của ông Lục Tùng thì tội ác thảm sát đồng bào ta tại xã Ba Chúc của bọn Khmer Đỏ là tội ác “trời không dung đất không tha” nên Đảng CSVN phải cho xây cụm nhà mồ Ba Chúc là địa điểm ghi dấu tội ác man rợ của bọn diệt chủng Pôn Pốt cũng đúng thôi! Nhưng vẫn còn kém xa, nếu đem so sánh với tội ác vô cùng dã man của quân xâm lược Trung Cộng thảm sát đồng bào ta tại xã Đề Thám là một xã ngoại ô của thị xã Cao Bằng, nơi giáp với tỉnh Quảng Tây, khu vực có nghĩa trang “liệt sĩ Long Châu” chôn lính Trung Cộng đã tử trận tại Việt Nam. Thị xã Cao Bằng là một trong những khu vực bị quân xâm lược Trung Cộng tàn phá nặng nề nhất. Tất cả bệnh viện, trường học, chùa chiền, đền thờ đều bị phá hủy tan hoang thành bình địa trước khi rút quân khỏi Việt Nam trong cuộc chiến tranh giới biên giới vào tháng 2 năm 1979. Đây cũng là nơi có nhiều thường dân bị quân xâm lược Trung Cộng tàn sát nhiều nhất. Họ chết vì đạn pháo, bị chặt đầu, mổ bụng, phụ nữ bị hãm hiếp tập thể cho đến chết, trẻ con bị ném xuống giếng… Nơi nầy, thay vì BCT/T.Ư/ Đảng CSVN cho xây cụm nhà mồ Đề Thám để đánh dấu tội ác man rợ của quân xâm lược Trung Cộng mới phải. Ngược lại, bọn CS Hà Nội lại cho in sách ca tụng quân xâm lược Trung Cộng giết hại đồng bào và tàn phá 6 tỉnh biên giới phía Bắc nước ta. Và mới đây, ai đó đã đặt một vòng hoa tại nghĩa trang liệt sĩ Long Châu, bốc mùi thúi hoắc: “ĐẢNG ỦY, HĐND, UBND, UBMTTQ XÃ ĐỀ THÁM ĐỜI ĐỜI NHỚ ƠN CÁC LIỆT SĨ TRUNG QUỐC.”
YẾU TỐ THỜI GIAN “TIỀN HẬU BẤT NHẤT”
Theo ông Lục Tùng, khu vực nhà mồ Ba Chúc được BỘ VĂN HÓA XẾP HẠNG CẤP QUỐC GIA, con số nạn nhân là 3.574 người và thời gian bắt đầu cuộc thảm sát kéo dài 11 ngày đêm từ 14 đến 25/ 4 /1978 do Ủy Ban Trưng ương Điều tra Tội ác Chiến tranh Xâm lược ghi nhận. Nhưng, tại sao bọn lãnh đạo CSVN lại ghi nhận móc thời gian từ 18 đến 29/ 4/ 1978 (sai biệt trước và sau 4 ngày) để làm gì?
Một câu hỏi được đặt ra: Thời gian chính xác xảy ra cuộc thảm sát 3.157 (hay 3.574) đồng bào vô tội làng Ba Chúc, tỉnh An Giang vào ngày 14 hay ngày 18 tháng 4 năm 1978? Chánh quyền CSVN phải biết rõ điều nầy hơn ai hết!
Cần phải nói rõ thêm là khoảng thời gian từ 14/4 đến 18/4 D.L đều rơi vào ngày LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG CHOL-CHNAM-THMAY CỦA DÂN TỘC KAMPUCHEA. Chắc chắn khoảng thời gian đó, tên đồ tể Pôn – Pốt và quân Khmer Đỏ không bao giờ khai sát giới, tàn sát 3.574 dân làng Ba Chúc trong các chùa chiềng.
LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG CHOL-CHNAM-THMAY
Là lễ mừng năm mới, lễ hội trọng đại và thiêng liêng nhất trong năm của người Kampuchea (tương tự như Tết Nguyên Đán của người VN). Lễ hội chính thức bắt đầu từ 1 đến 3 tháng Chét theo Phật Lịch, rơi vào ngày 14/4 Dương lịch (năm nhuận thì bắt đầu vào ngày 13/4). Trong 3 ngày lễ hội (năm nhuận là 4 ngày) mang đậm nét văn hóa Phật Giáo Tiểu Thừa, từ thời gian gắn liền với Phật Lịch, địa điểm tổ chức tại các chùa và nghi thức tụng kinh cầu phước, dâng cơm cho sư sãi và chủ tế hành lễ là các vị sư sãi, nên ngoài ý nghĩa chúc mừng năm mới, còn là làm phước của đồng bào Kampuchea.
Lễ hội còn có ý nghĩa tống tiễn mùa nắng, bước sang thời kỳ có mưa để kịp thời vụ. Bà con tiễn đưa thần TÊVÊDA CŨ (thần coi sóc cũ), đón thần TÊVÊDA MỚI. Trong dịp nầy, ngoài cúng lễ, bà con thường hỏi thăm nhau và chúc mừng lẫn nhau. Buổi tối có đốt pháo thăng thiên. Ban ngày tham dự các trò chơi như thả diều, đánh quay lửa…Trai gái trong làng múa Roam Vông, Lâm Thol, hát Dù Kê, chọi trâu…Vì vậy, tôi dám khẳng định rằng:
• Cho dù tên đồ tể Pôn – Pốt và quân Khmer Đỏ dù có khát máu đến đâu, cũng không vượt biên tấn công làng Ba Chúc, khai sát giới, tàn sát 3.574 dân lành vô tội trong 4 ngày lễ hội truyền thống CHOI-CHNAM-THMAY của dân tộc Kampuchea. Việc ông Trần văn Nhi cáo buộc quân Khmer Đỏ dùng súng đạn để giết hơn 200 người dân đang cầu nguyện trong chùa nhằm che đậy tội ác diệt chủng của quân đội CSVN mà thôi.
• Dân tộc Kampuchea theo Phật Giáo Tiểu Thừa. Họ kính trọng sư sãi một cách tuyệt đối. Ngôi chùa là trung tâm sinh hoạt văn hóa theo nghi lễ cổ truyền, nơi tổ chức các lễ hội hàng năm, là nơi tàng trử trử kinh Phật. Bản thân người dân Kampuchea cũng phải trải qua một thời gian niên thiếu ở trong chùa để học giáo lý nhà Phật, đạo lý làm người trước khi ra đời. Cho nên, bộ đội CSVN tập trung dân làng Ba Chúc vào các chùa chiềng để tàn sát tập thể rồi vu oan, giá họa cho quân diệt chủng Khmer Đó là một hành động ngu xuẩn, thiếu khôn ngoan, vì ngôi chùa đối với người Kampuchea là đền thiêng, bọn diệt chủng Khmer Đỏ không bao giờ dám giết người trong các ngôi chùa, rồi phóng hỏa đốt chùa như bọn Lảnh đạo CSVN đã tưởng tượng. Hành động giết người tập thể dã man nầy chỉ có bộ đội CSVN vô thần mới dám làm, như chúng đã làm trong biến cố TẾT MẬU THÂN1968 tại HUẾ.
Những vụ giết người tập thể như vậy, giải thích theo ngôn từ của TROTSKY: “Chẳng có ai là đao phủ, chỉ có nạn nhân.” Đúng vậy, cho dù nhân chứng có thấy mặt đao phủ thật sự là bộ đội CSVN, cải trang thành quân Khmer Đỏ, họ có dám đứng tố giác hay không? Không ai còn lạ gì thủ đoạn “giết người bịt miệng” của bọn CSVN. Làm sao những người được chánh quyền CSVN địa phương đưa ra làm nhân chứng, liệu họ có dám nói lên sự thật hay không? Chỉ cần một cái gật đầu, xác nhận bọn CSVN là lũ giết người thì đã toi mạng rồi!
KẾT LUẬN
Chúng tôi hy vọng “ỦY BAN TRUY TỐ TỘI PHẠM CHỐNG NHÂN LOẠI” tiến hành thu thập các tài liệu để làm sáng tỏ về vụ thảm sát nầy và mở lại: “HỒ SƠ CSVN THẢM SÁT 3.574 ĐỒNG BÀO TẠI LÀNG BA CHÚC, TỈNH AN GIANG TRONG THÁNG 4/ 1978” để truy tố tội ác diệt chủng của bọn lãnh đạo Đảng CSVN ra trước TÒA ÁN QUỐC TẾ LAHAY để đền tội.
Nguyễn Vĩnh Long Hồ
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
- Chiến tranh Đông Dương 3 của Hoàng Dung.
- Nửa tháng trong miền Thất Sơn của Nguyễn văn Hầu
- Tài liệu giải mật về cuộc chiến Hoa Việt của Lâm Lễ Trinh
- Thư tố cáo tội ác bọn CSVN của ông Trần H.
- Câu chuyện ngôi làng Ba Chúc ở biên giới Miên Việt của Hoàng Quý
- Ba Chúc ngày 16 tháng 3…Phóng sự của Lục Tùng.
- When the Khmer Rouge came to kill in Vietnam của James Pringle.
bienchet
Nov 16 2009, 09:45 PM
Hình chụp từ vệ tinh: làng Ba Chúc – Huyện Tịnh Biên – tỉnh Châu Đốc nằm
sát biên giới Cam Bốt. Làng Ba Chúc và Huyện Tịnh Biên được khoanh màu đỏ.
Biên giới Việt Nam – Cam Bốt là gạch màu vàng
Sau khi nghe câu chuyện “Từ Phục Quốc Giả Đến Nguyên Soái Nguyễn Cao Kỳ”, một bạn đọc của VietnamExodus đã email về hỏi anh Nguyễn Văn Vàng có biết gì về vụ thảm sát tại làng Ba Chúc, tỉnh Châu Đốc hay không? Để trả lời cho email đó, hôm nay anh Nguyễn Văn Vàng thuật lại câu chuyện thảm sát nói trên. Ai là thủ phạm của vụ thảm sát tại làng Ba Chúc? Tại sao lại có vụ thảm sát đó? Con số nạn nhân vô tội gồm toàn phụ nữ và trẻ em tại chùa Phi Lai lên đến bao nhiêu người? Xin quý bạn đọc theo dõi buổi nói chuyện của anh Nguyễn Văn Vàng.
Hài cốt ở Nhà mồ Ba Chúc
Án Sử Ấp Ba Chúc. Bách Việt Nhân July20, 2006
Ngày 18 Tháng 04 Năm 1978.
Trong lịch sử cuộc chiến Việt – Trung cận đại người dân Việt Nam chỉ có thể nhớ ngày 17 tháng 02 năm 1979 TC đã xua quân tràn sang biên giới phía bắc Việt Nam tấn công và tràn ngập 6 tỉnh : Lai Châu, Lào Cai, Hà Tuyên, Cao Bằng, Lạng Sơn, và Quảng Ninh.
Tuy nhiên ít có ai nhớ rõ nguyên nhân tại sao và nguồn gốc từ đâu đã phát xuất ra cuộc chiến nầy.
Bài viết nầy được viết lại nhằm mục đích nêu ra những dữ kiện mà những tài liệu trước của Giáo Sư Lâm Lễ Trinh, ông Nguyễn Vĩnh Long Hồ, ông Hoàng Quý và ông James Pringle đã không đề cập tới trong những bài viết sau đây:
- “Tài Liệu Giải Mật Về Cuộc Chiến Hoa Việt 1797.” GS Lâm Lễ Trinh.
- “Mở Lại Hồ Sơ CSVN Thảm Sát Đồng Bào Làng BA CHÚC, Tỉnh Anh Giang Đêm 18-04-1978.” ông Nguyễn Vĩnh Long Hồ.
- “Câu Chuyện Ngôi Làng Ba Chúc Ở Biên Giới Miên Việt.” ông Hoàng Quý:
http://www.lenduong.net/article.php3?id_article=6486
đã được chuyển dịch từ tài liệu của :
MEANWHILE : When the Khmer Rouge came to kill in Vietnam
By James Pringle International Herald Tribune
http://www.iht.com/bin/print_ipub.php?f … e_ed3_.php
Qua bài viết nầy chúng tôi cố gắng giải đáp một nghi vấn là:
Ai đã giết chết 3.157 mạng người dân vô tội?
Miên cộng (Khmer Rouge) Polpot đã ra tay tàn sát dân lành ?
Hay là tình báo cục Đông Dương của Trung Cộng điều hành cuộc tàn sát đã nói qua bàn tay của bộ chính trị CSVN, những quan thái thú TC hiện đang ngự trị trên đầu dân chúng Việt Nam thừa lệnh thiên triều TC để thi hành việc dâng đất, dâng biển Việt Nam cho TC? Qua các cơ quan có tên là TC2, T4 ???
Mọi người ai cũng hiểu là CSVN đã chịu rất nhiều áp lực từ phía TC vì thế nên phải lép vế đi theo chỉ đạo của TC, tuy nhiên cho đến nay không ai trong đất nước Việt Nam có một thái độ khẳng định dứt khoát là bộ chính trị CSVN chính là một hệ thống thái thú hiện đại của TC đặt tại Việt Nam, từ bộ chính trị xuống tới làng xã .
Đây là “mấu chốt vấn đề” cho cả một dân tộc thế mà không một ai trong đất nước Việt Nam dám nhìn nhận cái sự thật nầy.
Trong bài viết của giáo sư Lâm Lễ Trinh về trận chiến Hoa Việt cho thấy nguyên nhân của cuộc chiến là do sự tranh dành ảnh hưởng của hai phe thân Nga cộng và Tàu cộng . Rất đúng. Điều nhận xét của giáo sư Lâm Lễ Trinh và nhận xét của cả công luận báo chí trên thế giới rất đúng.
Tuy nhiên có một vấn đề mà cho đến nay chưa một ai hay những tác giả của những bài báo nêu lên hay đào sâu vào, đó là vấn đề : “Tình báo chiến lược Đông Dương của TC”
Liệu phe CSVN thân Nga có thật sự theo Nga cộng hay không ? hay chỉ là trá hình theo Nga để thu nhận tin tức tình báo cùng những tài liệu kỷ thuật của Nga rồi chuyển về cho TC để TC có thể hiện đại hóa quân sự và tiến hành mộng bành trướng của TC?
Trong quyển sách “Một Ngàn Giọt Lệ Rơi” của bà Đặng Mỹ Dung đã cho chúng ta thấy rõ điều nầy là tình báo CSVN chỉ hoạt động có lợi cho TC mà thôi.
Dưới đây là những dữ kiện của cuộc thãm sát 3.157 thường dân Việt Nam và Khờ-Me (Khmer).
* Tài liệu của ông Nguyễn Vĩnh Long Hồ.
- Nhà Mồ Ba Chúc được xây dựng giữa chùa Phi Lai và chùa Tam Bửu được nhà nước CSVN công nhận là “Di Tích Căm Thù” vào năm 1980 để đánh dấu tội ác man rợ của bọn diệt chủng Polpot từ ngày 18/04/1978 cho đến ngày 29/04/1978. (Theo tài liệu của CSVN thì Khmer đỏ đã tràn sang biên giới tàn sát dân lành VN từ 18/04/1978 cho đến 29/04/1978.)
-Ngày 18 tháng 04 năm 1978 CSVN đã tàn sát 3.157 mạng người trong các ngôi chùa, trường học tại làng Ba Chúc các biên giới Việt-Miên khoảng 7 km.
The Bone Pagoda. Ba Chúc, Tinh Biên
http://www.petermoore.net/same_same/slides/slide061.htm
Nhà mồ đã được xây theo hình bát giác (8 cạnh cuả bát quái đồ).
Tại sao không xây theo hình tròn, hình vuông, hình chử nhật mà phải là hình bát giác ?
Đây có phải là một phương thức trấn ếm cuả TC để triệt tiêu linh khí cuả miền Nam mà đại diện là ngành phật giáo Bửu Sơn Kỳ Hương do đức Phật Thầy Tây An sáng lập và giáo phái thừa truyền là Phật Giáo Hoà Hảo với chủ đạo Tứ Ân.
Đây có lẽ cũng là nguyên nhân chính mà CSVN đã cố tâm tàn sát tất cả những tín đồ cuả Phật Giáo Hoà Hảo trong khu vực miền Tây mà đức thầy Huỳnh Phú Sổ là người đại diện cho tôn giáo nầy.
http://www.petermoore.net/same_same/slides/slide062.htm
Một phần khu Thất Sơn trên website dưới đây.
http://www.thespecialforce.com/images/seven_mtn_map.htm
-Theo tiết lộ cuả Hoàng Tùng, uỷ viên bộ chính trị CSVN, bộ chính trị CSVN đã có ý đồ chiếm Cambodge từ năm 1970-1972. (Đây có lẽ là thời điểm mà 2 phe thân CSVN và thân TC đã được thành hình)
-Phe thân Nga gồm: Lê Duẩn, Võ Nguyên Giáp, Trần Quốc Hoàn, Văn Tiến Dủng, Nguyễn Văn Linh, Đổ Mười….
-Phe thân TC gồm: Lê Đức Thọ, Lê Đức Anh, Nguyễn Duy Trinh, Phạm Văn Đồng, Phạm Hùng…
-Tháng 09 năm 1975 Sihanouk và Khiêu Samphan, chủ tịch nước Khmer Rouge đến Hà Nội dự lễ quốc khánh cuả CSVN.
-Tháng 03 năm 1977 leng Sary, ngoại trưởng Khmer Rouge sang Bắc Kinh. Trong buổi tiếp tân có phó thủ tướng TC Lý Tiên Niệm, tổng tham mưu phó QĐTC Vương Thăng Long.
-Tháng 04 năm 1977, trong buổi tiếp tân tại Toà Đại sứ Cambodge, ngoại trưởng TC Hoàng Hoa công khai tuyên bố: “nước Cambodge đang bị kẻ thù phá hoại và TC sẽ sát cánh với những dân tộc nhỏ yếu chống lại những hành động can thiệp và gây hấn cuả các lân bang”. (Lời tuyên bố nầy đã khơi màu cho cuộc chiến Việt-Trung 1979-1991)
Cambodge tấn công vào những làng, xã và những thị trấn dọc biên giới thuộc tỉnh An Giang, Châu Đốc hai tuần sau, ngay vào ngày CSVN đang ăn mừng “Mùa Xuân đại thắng 1975″ (30-04-1977?).
Ảnh khu vực tỉnh An Giang Châu Đốc trên web site nầy.
http://www.davidlattin.com/military/fac … 48_06b.jpg
-Ngày 27 tháng 09 năm 1977 Pol Pot tuyên bố vai trò chủ tịch đảng lãnh đạo tổ chức Angka là đảng cộng sản Cambodge. Một ngày sau Pol Pot lên đường đi Bắc Kinh và Bình Nhưỡng với tư cách là chủ tịch đảng.
Ba ngày trước (24-09-1977?)chuyến đi, Pol Pot đã ra lệnh cho quân đội Quân Khu Đông tấn công vào Tây Ninh.
Ảnh khu vực tỉnh Tây Ninh trên web site nầy.
http://www.davidlattin.com/military/fac … 48_03g.jpg
CSVN không cho quân đội phản công.
-Cách chức tướng tư lệnh “quá khích” Trần Văn Trà!.
(Thay Lê Đức Anh vào để thi hành kế hoạch cuả tình báo TC là giử quân CSVN, 10-15 sư đoàn tại Cambodge, để TC rãnh tay tiến chiếm miền Bắc Việt Nam)
-Cử tướng Lê Đức Anh thay thế !?!?.
(Nhân vật Lê Đức Anh là mấu chốt, xuất xứ cuả cuộc chiến Việt-Trung 1979-1991, cũng để tạo nên những nghi kỵ giửa Việt Nam và Cambodge qua vụ giết oan những cán bộ cuả Cambodge, phe thân VN do TC2 điều khiển.)
-Phan Hiền bí mật sang Bắc Kinh nhờ TC dàn xếp. Không thành công.
TC nhất quyết ủng hộ Cambodge và chở vũ khí, chiến cụ ồ ạt tới cảng KomphongSom.
-Cuối năm 1977, quân đội CSVN tấn công thăm dò vào sâu trong lãnh thổ Cambodge, bị quốc tế lên án nên buộc phải rút quân về ngày 06 tháng 01 năm 1978.
-Đầu tháng giêng năm 1978, sư đoàn 2 và sư đoàn 210 của quân khu tây nam Cambodge đã tấn công và chiếm đóng các xã Phú Cường, Khánh An, Khánh Bình, các huyện Hồng Ngự, Hà Tiên thuộc lãnh thổ quân khu 9 Việt Nam.
Ảnh khu vực Tân Châu, Hồng Ngự.
http://www.davidlattin.com/military/fac … 48_06c.jpg
Ảnh khu vực Hà Tiên và biên giới Cambodge.
http://www.davidlattin.com/military/fac … 48_06a.jpg
-Tướng Trần Nghiêm, tư lệnh phó cuả Lê Đức Anh, được đề bạt làm tư lệnh quân khu 9 điều động các sư đoàn 4, 8, 330 cùng với 2 trung đoàn cơ động cuả hai tỉnh Hậu Giang và Đồng Tháp.
Sư đoàn 341, tư lệnh Vũ Cao, được điều từ quân khu 7 đến tăng phái cho quân khu 9.
Với sự yểm trợ của không quân, pháo binh, thiết giáp và với quân số áp đảo 4 sư đoàn: 4, 8, 330 341 cùng 2 trung đoàn cơ động để phản công mà mải tới 2 tháng sau CSVN mới có thể đánh bật sư đoàn 2 và sư đoàn 210 của Cambodge ra khỏi lãnh thổ Việt Nam!.
-Sư đoàn 330 CSVN (chính sư đoàn nầy là thủ phạm tàn sát 3.157 người dân ấp Ba Chúc) trấn đóng huyện Tri Tôn để tạo thành tuyến phòng thủ tại đây.
-Cuộc thanh trừng nội bộ thuộc Quân Khu Đông Cambodge đã xãy ra từ tháng 03 năm 1978 cho tới ngày 24 tháng 05 năm 1978 khiến cho sư đoàn 4 cuả Cambodge bị xoá sổ,
những sư đoàn3, 5, 280 suy yếu dần.
Ngày 18 tháng 04 năm 1978 xãy ra cuộc tàn sát đẩm máu của 3.157 nhân mạng thường dân vô tội, trong đó bao gồm cả dân chúng Việt lẫn Miên trong các ngôi chùa và trường học thuộc làng Ba Chúc. Cuộc tàn sát đã xảy ra trong khi Quân Khu Đông Cambodge có biến động thanh trừng lẫn nhau, có lẽ giửa hai phe thân TC và thân CSVN.!!
Đây quả thật là một sự trùng hợp kỳ cục!!
Ảnh nơi phòng trưng bày cuộc thảm sát tại khu Nhà Mồ Ba Chúc.
Hay đây là một cuộc đấu trí, đấu sức giữa tình báo TC và tình báo CSVN mà Lê Đức Anh làm đạo diễn (dưới bàn tay TC2, T4) qua những vụ án Xiêm Rệp (1983), vụ án Sáu Sứ (1991).
Tài liệu TC2
http://zdfree.free.fr/diendan/dossiers/TC2-pquang.html
Bằng cách giam khoảng 10-15 sư đoàn quân CSVN tại Cambodge, để cho quân TC có dịp tràn sang biên giới phiá Bắc Việt Nam ngày 17 tháng 02 năm 1979 và khởi chiến (cuộc chiến diệt chủng) với 2 quân đoàn Quảng Tây, Vân Nam và sau đó là 7 quân đoàn còn lại cuả TC, thay phiên nhau tấn chiếm suốt dọc chiều dài vùng biên giới phía bắc Việt Nam từ 1979-1991, để rồi bộ chính trị CSVN nhượng lần đất và biển cho TC?!.
-Theo tài liệu cùng với những nhân chứng địa phương, chính sư đoàn 330 hay còn gọi là sư đoàn 30 đã thực hiện cuộc tàn sát nầy và CSVN đã chọn địa điểm làng Ba Chúc vì nơi đây là nơi phát tích cuả giáo phái “Bửu Sơn Kỳ Hương” do đức Phật Thầy Tây An sáng lập ra và Phật Giáo Hoà Hảo là giáo phái đã được thừa truyền y bát với số tín đồ trên 7 triệu người đã trãi rộng ra khắp miền Tây Việt Nam.
Với chủ đạo “Tứ Ân Hiếu Nghĩa” bao gồm:
Ân Tổ Quốc.
Ân Thầy.
Ân Cha Mẹ.
Ân Đồng Bào.
kỳ diệu thay lại phù hợp với chủ đạo Việt tộc trong tôn giáo “Thờ Cúng Ông Bà, Tổ Tiên”. Nghiã là dưới bộ áo cà sa của “Bửu Sơn Kỳ Hương” lại ẩn tàn một “Gươm Thiêng Bảo Quốc”.
Đây là lý do tại sao cả TC lẫn CSVN tìm cách tiêu diệt giáo phái Phật Giáo Hoà Hảo nầy cho bằng được, kể từ 1939 cho đến ngày hôm nay.
Pháp luân công trên lãnh thổ Quảng Tây, TC là một bằng chứng.
http://www.theepochtimes.com/news/6-4-22/40693.html
http://www.theepochtimes.com/news/6-4-23/40735.html
http://www.theepochtimes.com/news/6-3-31/39910.html
http://www.theepochtimes.com/news/6-8-10/44795.html
http://www.theepochtimes.com/news/6-7-30/44422.html
http://www.theepochtimes.com/subpages/211,111,,4.html
-Ngày 15 tháng 06 năm 1978, các sư đoàn 7, 9, 341 cùng các đơn vị yễm trợ đã tràn sang Cambodge và chỉ rút quân về vào cuối năm 1989 (tháng 09/1989, tài liệu “Hồi Ký Trần QuangCơ”.)
-Ngày 17 tháng 02 năm 1979 chiến tranh Việt – Trung khởi đầu và chỉ chấm dứt sau năm 1991, dẫn đến việc mất những vùng đất biên giới phiá bắc Việt Nam và những vùng biển từ Bắc Bộ kéo dài xuống Trường Sa.
* Tài liệu trích từ James Pringle International Herald Tribune.
http://www.iht.com/bin/print_ipub.php?f … e_ed3_.php
Trong phần tài liệu cuả James Pringgle nấy có những dữ kiện sau đây đã tạo thành nghi vấn:
-Có 2 người con gái rất đẹp”Chinese beauties, từ ngữ cuả James Pringle” đi cùng với toán quân Khmer Rouge nhưng lại không nói được tiếng Việt lẫn tiếng Khmer Rouge. Điều chắc chắn là 2 người con gái nầy không xuất xứ từ Miên vì Pol Pot đã tàn sát hấu hết những người dân trong vùng.
-Tất cả nạn nhân đều bị bắn chết trong chùa và trường học, riêng bà H.T.N. lại bị bọn Khmer Rouge mang cả gia đình đi về phiá biên giới Việt-Miên rồi mới giết.
-Người con gái của bà HTN bị đập vào đầu 3 lần bằng báng súng (James Pringle dùng từ ngữ “struck”) cho thấy sự tàn nhẫn cuả toán người nầy.
Điều nầy khác với phương thức giết người theo kiểu “Cáp-Duồng” của người Miên, nghiã là tàn sát dân Việt Nam tại chổ, gặp đâu giết đó.
Tuy nhiên bà H.T.N mai mắn vẫn còn sống và được quân CSVN cứu sau 12 ngày đêm bị thương!!! (từ tài liệu cuả ông Nguyễn Vỉnh Long Hồ)
Nếu thật sự có quân Khmer Rouge tàn sát dân Việt từ ngày 18 tháng 04 cho đến ngày 29 tháng 04 năm 1978, thì tại sao các đơn vị của sư đoàn 330 đang đảm nhiệm việc thành lập tuyến phòng thủ và trấn đóng tại huyện Tri Tôn (làng Ba Chúc thuộc huyện Tri Tôn), lại không phát hiện ra biến cố trong đêm 18 tháng 04 năm 1978, vì có tất cả là 3.157 thường dân bị bắn chết trong các chùa và trường học.
Nghiã là có ít nhất 2.000 phát đạn đã được bắn vào dân!.
Tiếng súng AK47 nỗ rất chát chúa “bắkk..bắkk..bắkk..” (vũ khí Khmer Rouge được viện trợ từ TC) những cựu quân nhân trong QLVNCH không thể nào quên được những âm thanh đó thì làm sao những cán binh CSVN lại không biết được khi những tiếng súng AK47 nỗ một cách ghê rợn trong đêm trường vắng lặng.
Có tiếng súng nỗ trên 2.000 phát trong đêm mà phải đợi tới 12 ngày sau bà HTN mới được cứu sống thì quả thật mạng bà HTN quá lớn!!!.
Đúng là sự huyền nhiệm của vùng “Địa Linh Nhân Kiệt Thất Sơn” đã khiến cho bà HTN sống còn để trỡ thành nhân chứng sống.
* Tài liệu trích từ “Hồi Ký Trần Quang Cơ”. 1975-1991
http://zdfree.free.fr/diendan/dossiers/HoikyTQC.html
Mở đầu hồi ký nầy ông Trần Quang Cơ cho thấy CSVN đã có cơ hội ban giao với Hoa Kỳ để xây dựng lại đất nước sau cuộc chiến làm tan hoang đất nước, thế như không biết vì cái não trạng bệnh hoạn Xã Hội Chủ Nghiã, hay não trạng lệ thuộc tàu, hay não trạng thích làm quan thái thú mà CSVN đã bỏ đi cơ hội tốt để rồi cuối cùng đưa cả nước vào tệ nạn nghèo đói, lạc hậu, đĩ điếm, ma cô (những từ ngữ nầy CSVN đã tròng lên cổ chính thể Việt Nam Cộng Hoà và sau nầy cho những người Việt tị nạn hải ngoại) để rồi đến nỗi phải dâng những vùng lãnh thổ và lãnh hải cho TC.
bienchet
Nov 16 2009, 09:57 PM
Dưới đây là những cơ hội mà Việt Nam đã đánh mất.. “………..
Đại sứ Mỹ tại LHQ, Andrew Young, đã nói rõ điều đó: “Chúng tôi coi Việt Nam như một Nam Tư ở châu Á. Không phải là bộ phận của Trung Quốc hay của Liên Xô, mà là một nước độc lập. Một nước Việt Nam mạnh và độc lập là phù hợp với lợi ích quốc gia của Mỹ” (tháng 01.1977).
……………..
Ngày 6.1.77, thông qua Liên Xô, Mỹ lại đưa ra một kế hoạch 3 bước về bình thường hoá quan hệ với Việt Nam:
1. Việt Nam cho biết tin về những “người Mỹ mất tích trong chiến tranh” (MIA).
2. Mỹ chấp nhận Việt Nam vào LHQ và sẵn sàng lập quan hệ ngoại giao đầy đủ, cũng như bắt đầu buôn bán với Việt Nam.
3. Mỹ có thể đóng góp khôi phục tại Việt Nam bằng cách phát triển buôn bán, cung cấp thiết bị và các hình thức hợp tác kinh tế khai thác.
……………………..
Ngày 3/3/1977 chính quyền Carter quyết định nới lỏng một phần cấm vận đối với ta, cho phép tàu thủy và máy bay nước khác chở hàng sang Việt Nam được ghé các cảng và sân bay của Mỹ để lấy nhiên liệu (nhưng vẫn cấm người Mỹ buôn bán với Việt Nam, cấm tàu Mỹ đến Việt Nam đến cảng và sân bay Mỹ). Ngày 9.3.77, Mỹ cho phép công dân Mỹ được đi thăm Việt Nam, Cu Ba, Bắc Triều Tiên, Campuchia kể từ ngày 18.3.77.
………………….
Trong đàm phán vòng 1 (ngày 3-4.5.77), lập trường của Mỹ là hai bên thiết lập quan hệ ngoại giao đầy đủ ngay và vô điều kiện, còn những vấn đề khác giữa hai bên để lại giải quyết sau; Mỹ sẽ không cản Việt Nam vào LHQ. Còn về điều 21 (của Hiệp định Paris về VN), Mỹ có khó khăn về pháp luật nên không thực hiện được, hứa sẽ thực hiện khi đã có quan hệ, bỏ cấm vận buôn bán và xét viện trợ nhân đạo.
…………………..
Theo chỉ thị đã nhận trước khi đi, ta kiên quyết đòi phải giải quyết “cả gói”9 3 vấn đề: ta và Mỹ bình thường hoá quan hệ (bao gồm cả việc bỏ cấm vận và lập quan hệ ngoại giao đầy đủ), ta giúp Mỹ giải quyết vấn đề MIA và Mỹ viện trợ 3,2 tỷ đô-la cho Việt Nam như đã hứa hẹn trước đây. Trở ngại lớn nhất cho việc bình thường hoá quan hệ là việc ta đòi Mỹ viện trợ 3,2 tỷ đô-la cho ta vì Quốc hội Mỹ khi đó dứt khoát không chấp nhận viện trợ làm điều kiện cho việc bình thường hoá quan hệ với Việt Nam.
Chú thích: Đây có phải là chỉ thị cuả CSVN hay là chỉ thị của tình báo TC để phá sự liên kết cuả Hoa Kỳ và Việt Nam? Vừa đánh đuổi người ta đi, vấn đề MIA chưa giải quyết lại ngữa tay “xin” lấy 3.2 tỷ đô theo lối “ăn cướp”. Trong thế giới ngoại giao chưa có một quốc gia nào như CSVN. Nói ra chỉ thêm mang nhục cho dân tộc Việt Nam.
……………………
Ngày 2-3.6, đàm phán vòng 2, Mỹ nêu lại các đề nghị hồi tháng 5. Ngày 19.7.77, tại Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc (LHQ), Mỹ quyết định rút bỏ việc phủ quyết Việt Nam vào LHQ. Sau vòng 2, anh Phan Hiền đã phải bay về Hà Nội báo cáo và xin chỉ thị, thực chất là đề nghị trên nên có thái độ thực tế và đối sách mềm dẻo hơn, nhưng nghe nói cả 4 vị lãnh đạo chủ chốt của ta lúc đó đều nhất trí lập trường trên. Trước đòi hỏi kiên quyết của ta, tại vòng 3 (19-20.12.78), Mỹ đề nghị nếu chưa thoả thuận được về việc thiết lập quan hệ ngoại giao đầy đủ thì có thể lập Phòng Quyền lợi10 ở thủ đô hai nước, nhưng như vậy thì chưa bỏ cấm vận được. Sau khi có Phòng quyền lợi thì sẽ tuỳ tình hình mà xét bỏ cấm vận, song ta vẫn giữ lập trường cũng nhắc đòi giải quyết “cả gói” 3 vấn đề.
Trong khi đó, theo sự xúi dục của Bắc Kinh, chính quyền Polpot bắt đầu chiến tranh biên giới chống ta từ ngày 30.4.77 và đơn phương cắt đứt quan hệ ngoại giao với ta ngày 31.12.77.
Chú thích: Với những dữ kiện trên cho thấy CSVN đã bị vào xiết cuả tình báo TC từ trong bộ chính trị CSVN. Một mặt TC tìm cách phá không cho VN nối lại ngoại giao với Hoa Kỳ, qua những đòi hỏi cuả bộ chính trị CSVN. Một mặt TC xúi dục Polpot tấn công biên giới phiá Tây Nam VN để tiêu hao tìm lực cuả dân tộc VN và Lê Đức Anh được chỉ định “bí mật” thi hành. Chỉ rút quân về ngày 26 tháng 09 1990, khi cuộc chiến Việt-Trung sắp chấm dứt.
Điều nầy cũng nói lên một vấn đề là TC rất sợ sự đoàn kết cuả dân tộc VN.
………………
Ngày 23.8.78, trong lúc Mỹ đàm phán về bình thường hoá quan hệ với ta ở Paris, ngoại trưởng Mỹ C.Vance đã đi thăm Bắc Kinh. Cho đến khi Đặng Tiểu Bình tuyên bố “Trung Quốc là NATO phương Đông” và “Việt Nam là Cuba phương Đông” (19.5.78) và Bizezinski đi thăm Trung Quốc (20.5.78) thì chính quyền Carter đã chọn con đường bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc và gác sang bên việc bình thường hoá quan hệ với Việt Nam.
…………………
Đặng Tiểu Bình đi thăm Mỹ (29.1 – 4.2.79) đánh dấu việc bình thường hoá quan hệ Mỹ – Trung Quốc, cũng là lúc Mỹ chính thức xếp lại việc bình thường hoá quan hệ Việt Nam.
Chú thích: Đây là lúc kế hoạch chiến tranh “giới hạn” Việt-Trung đã thật sự thành hình. Tài liệu “10 Năm Chiến Tranh Việt-Trung”, Đại Học Tứ Xuyên, TC xuất bản.
Ngày 16.2.79, Carter có nêu 6 nguyên tắc xử sự khi Trung Quốc xâm lăng Việt Nam:
-Mỹ không can thiệp trực tiếp, khuyến khích các bên tự kiềm chế;
-Việt Nam rút quân khỏi Campuchia;
-Trung Quốc rút quân khỏi Việt Nam;
-Cuộc xung đột không đe doạ lợi ích trước mắt của Mỹ;
-Không đặt lại vấn đề bình thường hoá với Trung Quốc;
-Quyền lợi đồng minh của Mỹ không bị đe dọa.
Chú thích: Như thế CSVN đã biết rõ TC sẽ tấn công VN thế nhưng CSVN vẫn giam chết những đơn vị thiện chiến tại chiến trường Cambodge, để cho tiêu hao binh lực, và chỉ phản công khi quân TC đã tràn sang biên giới, để cho TC tiến hành cuộc chiến “genocide” nghiã là “diệt chủng” dân Việt Nam. Mặt trận Lạng Sơn-Cao Bằng, mặt trận Hà Giang, Vị Xuyên với 3.700 tử sỉ đã bị bộ chính trị CSVN bán đứng, Mặt trận Lào Cai-Lai Châu là những bằng chứng cụ thể cho thấy bộ chính trị CSVN đã bán đứng đất nước, bán đứng dân tộc Việt Nam.
“Lý Quang Diệu đã nhận xét: “Năm 1975 thành phố Hồ Chí Minh có thể sánh ngang với Bangkok. Nhưng nay (năm 1992) nó tụt lại đằng sau tới hơn 20 năm”.”
Chú thích: Mong rằng những người CSVN đọc nhận xét nầy của Lý Quang Diệu.
“Nên nhớ lúc bấy giờ Miền Nam Việt Nam đã trãi qua trên 20 năm nội chiến đấy nhé! thế mà Sài Gòn vẫn ngạo nghễ sánh vai – có hơn chứ không kém – với những “Tiểu long Châu Á”.”
Nguời CSVN trả lời như thế nào về nhận xét rất chính xác cuả một lãnh tụ nỗi tiếng vùng Đông Nam Á Châu, Lý Quang Diệu?
…………………………
13. CUỘC GẶP CẤP CAO VIỆT – TRUNG TẠI THÀNH ĐÔ
http://zdfree.free.fr/diendan/dossiers/HoikyTQC_13.html
Ngày 29.8.90, đại sứ Trương Đức Duy xin gặp gấp TBT Nguyễn Văn Linh và Thủ tướng Đỗ Mười chuyển thông điệp của TBT Giang Trạch Dân và Thủ tướng Lý Bằng mời TBT Nguyễn Văn Linh, Thủ tướng Đỗ Mười và Cố vấn Phạm Văn Đồng sang Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc ngày 3.9.90 để hội đàm bí mật về vấn đề Campuchia và vấn đề bình thường hoá quan hệ hai nước. Trương nói mập mờ là Đặng Tiểu Bình có thể gặp anh Tô. Trung Quốc còn lấy cớ ở Bắc Kinh đang bận chuẩn bị tổ chức ASIAD (Á Vận hội) nên không gặp cấp cao Việt Nam ở thủ đô Bắc Kinh được vì khó giữ được bí mật, mà gặp ở Thành Đô.
Đây quả là một sự chuyển biến đột ngột của phía Trung Quốc. Trước đây Trung Quốc nói không chỉ sau khi giải quyết xong vấn đề Campuchia mới gặp cấp cao ta và mới bàn vấn đề bình thường hoá quan hệ. Năm ngày trước – ngày 24.8.90 – Trung Quốc còn bác bỏ việc gặp cấp cao, nay lại mời ta gặp cấp cao trong một thời hạn rất gấp và đồng ý cấp cao sẽ nói chuyện về cả hai vấn đề Campuchia và vấn đề bình thường hoá quan hệ.
Thái độ “thiện chí” gấp gáp như vậy của Bắc Kinh không phải tự nhiên mà có. Nó có những nguyên nhân sâu xa và nhân tố bức bách.
Chú thích: Trong giai đoạn nầy, năm 1990, chiến trận Việt-Trung sắp sửa kết thúc. TC đã chiếm khá nhiều đất cuả Việt Nam và đã buột CSVN phải chấp nhận lập lại cột mốt biên giới mới. Cũng xin nói rõ là cho đến năm nầy 1990 TC vẫn chưa tháo gở bài mìn dọc theo biên giới Việt-Trung. TC đã không thực hiện đúng như lời tuyên bố với thế giới là gở mìn hoàn toàn, mà chỉ “seal” khu vực rồi để đó, nghiã là chỉ để bản “Khu Vực Mìn Bẩy Cấm Vào”. Để sau nầy bắt CSVN phải chấp nhận khu vực mìn bẩy nầy là lãnh thổ của TC. Cuộc hợp cấp cao tại Thành Đô chỉ với mụch đích đó mà thôi.
………………………
14. THÀNH ĐÔ LÀ THÀNH CÔNG HAY LÀ THẤT BẠI CỦA TA ?
http://zdfree.free.fr/diendan/dossiers/HoikyTQC_14.html
Ngay sau khi ở Thành đô về, ngày 5.9.90 anh Linh và anh Mười, có thêm anh Thạch và Lê Đức Anh, đã bay sang PhnomPenh thông báo lại với BCT Campuchia nội dung cuộc gặp gỡ cấp cao Việt-Trung. Để thêm sức thuyết phục PhnomPenh nhận Thoả thuận Thành đô, anh Linh nói với lãnh đạo Campuchia: “Phải thấy giữa Trung Quốc và đế quốc cũng có mâu thuẫn trong vấn đề Campuchia. Ta phải có sách lược lợi dụng mâu thuẫn này. Đừng đấu tranh với Trung Quốc đến mức xô đẩy họ bắt tay chặt chẽ với đế quốc.”
Lập luận này được Lê Đức Anh mở rộng thêm: “Mỹ và phương Tây muốn cơ hội này để xoá cộng sản. Nó đang xoá ở Đông Âu. Nó tuyên bố là xoá cộng sản trên toàn thế giới. Rõ ràng nó là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm. Ta phải tìm đồng minh. Đồng minh này là Trung Quốc.”
Chú thích: Xin đọc giả lưu ý lập luận cuả Lê Đức Anh bên trên, điều nầy cho thấy rất rõ những việc làm cuả Lê Đức Anh sau nầy đều có lợi cho TC.
Nhìn lại, trong cuộc gặp Thành Đô, ta đã mắc lỡm với Trung Quốc ít nhất trên 3 điểm:
* Trung Quốc nói cuộc gặp Thành Đô sẽ đàm phán cả vấn đề Campuchia và vấn đề bình thường hoá quan hệ, nhưng thực tế chỉ bàn vấn đề Campuchia, còn vấn đề bình thường hoá quan hệ hai nước Trung Quốc vẫn nhắc lại lập trường cũ là có giải quyết vấn đề Campuchia mới nói đến chuyện bình thường hoá quan hệ hai nước;
* Trung Quốc nói mập mờ là Đặng Tiểu Bình có thể gặp cố vấn Phạm Văn Đồng, nhưng đó chỉ là cái “mối” để kéo anh Đồng tham gia gặp gỡ cấp cao.
* Trung Quốc nói giữ bí mật việc gặp cấp cao hai nước, nhưng ngay sau cuộc gặp hầu như tất cả các nước đã được phía Trung Quốc trực tiếp hay gián tiếp thông baó nội dung chi tiết bản thoả thuận Thành Đô theo hướng bất lợi cho ta.
Chú thích: Mục đích chính cuả TC là chỉ muốn CSVN chấp nhận những phần đất đã bị TC chiếm đóng trong cuộc chiến Việt-Trung mà thôi, vấn đề Cambodge chỉ là phụ.
Hai nhân vật Lê Đức Thọ, Lê Đức Anh
và nhân vật tình báo TC, trợ lý bộ trưởng, Từ Đôn Tín !?
Cuối tháng 4.87, Lê Đức Thọ lại cùng Lê Đức Anh bay sang Campuchia họp với những người lãnh đạo PhnomPenh bàn việc thúc đẩy giải pháp chính trị Campuchia và quan hệ với Trung Quốc, trong đoàn có tôi và anh Trần Xuân Mận của CP 87. Anh Lê Đức Thọ khi đó đã đưa ra gợi ý “giải pháp Đỏ”. Bản thân tôi lần đầu mới được biết tường tận về cái gọi là “giải pháp Đỏ”. Nói gọn lại, “giải pháp đỏ” là một sản phẩm của mộng tưởng giải quyết cuộc xung đột Campuchia bằng cách hoà giải PhnomPenh với bọn diệt chủng Polpot và lập nên một nước Campuchia XHCN vừa làm vừa lòng Trung Quốc vừa hợp ý của lãnh đạo ta.
Chú Thích: Xin lưu ý Lê Đức Thọ và Lê Đức Anh (tình báo TC) cùng bay qua Cambodge và Lê Đức Thọ đã đưa ra “giải pháp đỏ”, kế sách nầy là phương thức gây rối loạn trong nội bộ cả 2 nước Cambodge và Việt Nam sau nầy để TC dễ bề thao túng cả 2 nuớc. Giống như phương thức “Hoà Hợp Hoà Giải” dân tộc Việt Nam cho đến bây giờ vẫn còn có hiệu quả cuả sự xáo trộn, và gây chia rẽ trong cộng đồng Việt Nam.
Ngày 8.3.90, cố vấn Lê Đức Thọ cho gọi tôi và anh Đinh Nho Liêm đến nhà riêng ở số 4 Nguyễn Cảnh Chân nói mấy ý kiến về vấn đề Campuchia: Cần có chuyển hướng chiến lược trong đấu tranh về vấn đề Campuchia. Phải giải quyết với Trung Quốc, nếu không thì không giải quyết được vấn đề Campuchia. Không thể gạt Khmer Đỏ. Cần mềm dẻo về vấn đề diệt chủng, có thể nói “không để trở lại chính sách sai lầm trong quá khứ”. Không chấp nhận LHQ tổ chức tổng tuyển cử. Cần nêu phương án lập chính phủ liên hiệp lâm thời hai bên bốn phái để tổ chức tổng tuyển cử ở Campuchia. Phải giải quyết một bước cơ bản vấn đề Campuchia trước Đại hội VII để khai thông những vấn đề khác.
Hai hôm sau anh lại nói với Nguyễn Cơ Thạch những ý đó. Sự việc này khiến tôi suy nghĩ: tại sao lại thay đổi phương hướng đối sách trước khi đại hội Đảng họp ? Tại sao lại chỉ nói với anh Thạch sau khi đã nói với chúng tôi ?
Chú thích: Nếu đọc kỷ đoạn văn trên ta sẽ thấy là Lê Đức Thọ nói những điều mà TC đã cố ý buột CSVN phải theo. Nghiã là không chống đối TC, không gạt bỏ Khmer Rouge, không chấp nhận LHQ tổ chức tổng tuyển cử, và không dùng từ ngữ “genocide-diệt chủng”. Tại sao Lê Đức Thọ lại có thái độ đó? Có phải Lê Đức Thọ là người cuả TC?
Sáng 30.5.90, TBT Nguyễn Văn Linh thông báo với Bộ Chính trị về cuộc họp với 2 TBT đảng Lào và đảng Campuchia ngày 20-21.5, nói ra dự định sẽ gặp đại sứ Trung Quốc và Từ Đôn Tín khi Từ đến Hà Nội. Cố vấn Phạm Văn Đồng và một số trong BCT tỏ ý phải thận trọng trong xử sự với Trung Quốc. Anh Tô nói: Mấy nghìn năm Trung Quốc vẫn là Trung Quốc, không nên cả tin. Ta cần thăm dò thúc đẩy nhưng phải cảnh giác, đừng để hớ. Đỗ Mười cũng khuyên anh Linh không nên gặp đại sứ Trung Quốc và Từ Đôn Tín trước cuộc đàm phán. Nhưng Lê Đức Anh lại tỏ ra đồng tình với dự định của anh Linh, cho rằng phải thăm dò và phân tích chiến lược của Trung Quốc, xử lý mối quan hệ của 3 nước lớn và 5 nước thường trực HĐBA, tranh thủ thế giới thứ ba, ủng hộ các nước XHCN. Ngày 5.6.90, vài ngày trước khi Từ Đôn Tín đến Hà Nội, TBT Nguyễn Văn Linh đã mời đại sứ Trương Đức Duy (vừa từ Bắc Kinh trở lại Hà Nội) đến Nhà khách Trung ương Đảng nói chuyện thân mật để tỏ lòng trọng thị đối với Bắc Kinh.36 Trong cuộc gặp, như để chấp nhận lời phê bình của Đặng (nói qua Kayson), Nguyễn Văn Linh nói “Trong quan hệ hai nước, 10 năm qua có nhiều cái sai. Có cái đã sửa như việc sửa đổi Lời nói đầu của Hiến pháp, có cái sai đang sửa”. Anh sốt sắng ngỏ ý muốn sang gặp lãnh đạo Trung Quốc để “bàn vấn đề bảo vệ Chủ nghĩa xã hội” vì “đế quốc đang âm mưu thủ tiêu chủ nghĩa xã hội… chúng âm mưu diễn biến hoà bình, mỗi đảng phải tự lực chống lại. Liên Xô là thành trì XHCN , nhưng lại đang có nhiều vấn đề. Chúng tôi muốn cùng các người cộng sản chân chính bàn vấn đề bảo vệ chủ nghĩa xã hội… Tôi sẵn sàng sang Trung Quốc gặp lãnh đạo cấp cao Trung Quốc để khôi phục lại quan hệ hữu hảo. Các đồng chí cứ kêu một tiếng là tôi đi ngay… Trung Quốc cần giương cao ngọn cờ chủ nghĩa xã hội, kiên trì chủ nghĩa Mác-Lênin”. Về vấn đề Campuchia, anh Linh đã gợi ý dùng “giải pháp Đỏ” để giải quyết: “Không có lý gì những người cộng sản lại không thể bàn với những người cộng sản được”, “họ gặp Sihanouk còn được huống chi là gặp lại nhau”.
Chú thích: Nếu những người Việt Quốc Gia chân chính muốn xây dựng lại đất nước và có ý tưởng cải sửa những người CSVN có lẽ nên đọc đoạn văn về lời tuyên bố trên cuả Nguyễn Văn Linh để suy gẩm.
……………………
Sáng 6.6.90, Bộ trưởng Quốc phòng Lê Đức Anh lại gặp riêng và mời cơm đại sứ Trương Đức Duy. Cuộc gặp riêng chỉ giữa hai người, Trương Đức Duy vốn là thông dịch, rất thạo tiếng Việt nên không cần có người làm phiên dịch. Nội dung cuộc gặp này mãi đến ngày 19.6 trong cuộc họp BCT để đánh giá cuộc đàm phán 11-13.6 giữa tôi và Từ Đôn Tín, Lê Đức Anh mới nói là đã gặp Trương Đức Duy để nói cụ thể thêm ba ý mà anh Linh đã nói với đại sứ Trung Quốc hôm trước (gặp cấp cao hai nước; hai nước đoàn kết bảo vệ chủ nghĩa xã hội; hai nhóm cộng sản Khmer nên nói chuyện với nhau). Nhưng trước đó, từ ngày 6.6, phía Trung Quốc (tham tán Lý Gia Trung và Bí thư thứ nhất Hồ Càn Văn) đã cho ta biết nội dung câu chuyện giữa Lê Đức Anh và Trương Đức Duy. Còn đại sứ Trung Quốc cho anh Ngô Tất Tố, Vụ trưởng vụ Trung Quốc biết là trong cuộc gặp ông ta ngày 6.6, anh Lê Đức Anh đã nói khá cụ thể về “giải pháp Đỏ”: “Sihanouk sẽ chỉ đóng vai trò tượng trưng, danh dự, còn lực lượng chủ chốt của hai bên Campuchia là lực lượng Heng Somrin và lực lượng Polpot, Trung Quốc và Việt Nam mỗi bên sẽ bàn với bạn Campuchia của mình, và thu xếp để hai bên gặp nhau giải quyết vấn đề. Địa điểm gặp nhau có thể ở Việt Nam, có thể ở Trung Quốc, nhưng ở Trung Quốc là tốt hơn cả. Đây là gặp nhau bên trong, còn bên ngoài hoạt động ngoại giao vẫn như thường… Ngày xưa Polpot là bạn chiến đấu của tôi…”
Chú thích: Lúc nầy con bài Lê Đức Anh đã lộ mặt, được đưa ra. Đọc kỷ đoạn trên cho ta thấy Lê Đức Anh đã khấu đầu thiên triều bằng cách tiếp kiến riêng đại sứ TC Trương Đức Duy và nếu đọc đoạn cuối sẽ thấy Polpot là bạn chiến đấu của Lê Đức Anh!?
Trưa ngày 9.6.90, Đại sứ Trương Đức Duy nói với Vụ Trung Quốc Bộ Ngoại giao ta rằng, trong cuộc gặp TBT Nguyễn Văn Linh, phía Trung Quốc rút ra được 3 ý kiến:
1. Đồng chí Nguyễn Văn Linh nói về quan hệ hai nước rất đậm đà. Nói 10 năm qua có nhiều cái sai. Có cái sai như lời nói đầu của Hiến pháp, có cái sai đang sửa. Muốn gặp cấp cao Trung Quốc để trao đổi những vấn đề lớn trong quan hệ hai nước.
2. Về tình hình quốc tế: tình hình Liên xô, Đông Âu có nhiều thay đổi. Liên Xô trước đây là thành trì của CNXH, nay thành trì này cũng lung lay rồi. Trung Quốc cần giương cao ngọn cờ CNXH, kiên trì chủ nghĩa Mác-Lênin. Việt Nam kiên trì chủ nghĩa Mác-Lênin. Những mgười cộng sản chân chính phải đoàn kết để bảo vệ CNXH. Chủ nghĩa đế quốc luôn tấn công vào CNXH. Chúng tuyên bố đến cuối thế kỷ này sẽ làm cho CNXH biến mất.
3. Về Campuchia: tại sao những người cộng sản không hợp tác với nhau ? Polpot và Hunxen phải hợp tác với nhau
Chiều 10.6.90, Bí thư thứ nhất sứ quán Trung Quốc Hồ Càn Văn nói với anh Vũ Thuần, Vụ phó vụ Trung Quốc Bộ Ngoại giao: “Từ Đôn Tín tuy là trợ lý ngoại trưởng nhưng là người có thực quyền trong việc giải quyết các vấn đề Châu Á. Trên khía cạnh nào đó có thể nói còn có thực quyền hơn cả cấp thứ trưởng. Việc Từ sang Việt Nam lần này là có sự quyết định của cấp cao nhất của Trung Quốc, chứ không phải Bộ Ngoại giao.”
Theo Hồ Càn Văn, ngày 23.5.90 Cục trưởng Cục Đối ngoại Bộ Quốc phòng Việt Nam Vũ Xuân Vinh đã mời Tuỳ viên quân sự Trung Quốc Triệu Nhuệ đến để thông báo là TBT Nguyễn Văn Linh và Bộ trưởng Quốc phòng Lê Đức Anh sẽ tiếp Từ Đôn Tín khi Từ đến Hà Nội. Chính những động thái bất thường và vượt ra ngoài khuôn khổ ngoại giao này của ta đã làm cho Trung Quốc hiểu rằng nội bộ Việt Nam đã có sự phân hoá và vai trò của Bộ Ngoại Giao không còn như trước.
Ngày 8.6.90, khi được biết là lần này tôi sẽ là người đứng ra thay anh Đinh Nho Liêm đàm phán với Từ Đôn Tín. Bộ trưởng Quốc phòng Lê Đức Anh còn điện thoại dặn tôi tránh chủ động nói đến “giải pháp Đỏ”: Việc hai bên Đỏ tiếp xúc với nhau là chuyện lâu dài, cần cho ổn định lâu dài. Trung Quốc sẽ tác động với phía Campuchia thân Trung Quốc, ta sẽ tác động với phía Campuchia thân ta để hai bên kiềm chế việc thù địch nhau. Việc này phải có thời gian, không thể nhanh được, không thể đòi họ trả lời ngay. Đừng thúc họ, cứ để họ chủ động, khi nào trả lời được thì họ trả lời… Phải rất bí mật. Lộ ra rất nguy hiểm. Chỉ nói khi gặp riêng chứ không nói khi đàm phán. Việc anh Nguyễn Văn Linh đặt vấn đề với đại sứ Trương Đức Duy nói sẵn sàng đi Trung Quốc gặp cấp cao nhất, cũng không nên hỏi lại nếu họ chưa nói tới.”
Chú thích: Đoạn trên cho thấy Từ Đôn Tín (người có thực quyền giải quyết vấn đề Á Châu) và Lê Đức Anh (kè nhận và thi hành lệnh từ TC) là cặp bài đôi cuả TC dùng để thi hành thuật gián điệp và phản gián điệp. Lúc bấy giờ Lê Đức Anh là Bộ Trưởng Quốc Phòng CSVN, thế nhưng Lê Đức Anh lại chen chân vào việc cuả Bộ Ngoại Giao CSVN!
……………
Nhưng sự việc trở nên phức tạp khi trưa ngày 11.6.90 sau đàm phán phiên đầu với Từ Đôn Tín tôi về Bộ Ngoại Giao hội báo lại với anh Thạch. Anh Thạch lúc này đang họp Hội nghị ngoại giao đánh giá tình hình Đông Âu – Liên Xô. Nghe tôi phản ánh tình hình đàm phán xong, anh liền gạn hỏi tôi có nói với Từ về “giải pháp Đỏ” không. Tôi nói: “Đồng chí Lê Đức Anh đã dặn phải thận trọng tránh nói đến vấn đề đó khi đàm phán.” Anh Thạch vặn lại: “Vậy đồng chí nghe theo ý kiến bộ trưởng Quốc phòng hay ý kiến bộ trưởng Ngoại giao ?”. Tôi đáp: “Là cán Bộ Ngoại Giao, tôi sẵn sàng chấp hành ý kiến anh, với sự hiểu biết rằng anh nói với tư cách là uỷ viên Bộ Chính trị”.
………………….
16. MÓN NỢ THÀNH ĐÔ
http://zdfree.free.fr/diendan/dossiers/HoikyTQC_16.html
46[Từ tháng 9.90, Trung Quốc luôn coi ta mắc nợ họ về thoả thuận Thành Đô, đòi ta thực hiện thoả thuận đó,]
Chú thích: Đây là món nợ gì mà CSVN đã thoả thuận với TC, để cho TC đòi CSVN phải thực hiện thỏa thuận đó? Có phải là vấn đề lãnh thổ, lãnh hải hay không ?
Trung Quốc thấy rằng việc thực hiện thoả thuận Thành Đô gặp trở ngại chính từ Bộ Ngoại giao nên chủ trương chia rẽ nội bộ ta càng trắng trợn hơn.
………………….
Tình hình bất đồng ý kiến trong BCT càng đến gần Đại hội càng bộc lộ gay gắt. Ngày 13.4.91, trong cuộc họp BCT bàn về tình hình thế giới và đường lối đối ngoại để chuẩn bị báo cáo chính trị tại Đại hội, sau khi anh Thạch bản báo cáo về “Tình hình thế giới và chiến lược đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta”, Lê Đức Anh giới thiệu đại tá Lân, cán bộ Cục II Bộ Quốc phòng, trình bày về tình hình thế giới và mưu đồ đế quốc”. Nghe xong, TBT Nguyễn Văn Linh phát biểu: “Chủ quan tôi nghĩ giữa bản trình bày sáng nay (của Bộ Ngoại Giao) và bản trình bày tình hình quân sự chiều nay của Bộ Quốc phòng có nhiều chỗ khác nhau. Muốn thảo luận chủ trương thì phải thảo luận tình hình trước, nhưng cách đánh gia tình hình còn khác nhau”
Lê Đức Anh: “BCT nên nghe tình hình nhiều mặt, ngay trong nước chúng ta cũng đánh giá khác nhau. Căn cứ vào đánh gía chung, mỗi ngành có đề án riêng, không làm chung được”.
Chú thích: đọc đoạn văn trên cho thấy là Lê Đức Anh đã, đang và sẽ cài người của TC vào ngay trong nội bộ cuả bộ chính trị CSVN.
18. ĐẠI HỘI VII VÀ CÁI GIÁ PHẢI TRẢ CHO VIỆC BÌNH THƯỜNG HOÁ QUAN HỆ VỚI TRUNG QUỐC
http://zdfree.free.fr/diendan/dossiers/HoikyTQC_18.html
Từ 17 đến 27.6.91 Đảng Cộng sản Việt Nam họp Đại hội lần thứ VII đưa lại nhiều thay đổi quan trọng về nhân sự: Đỗ Mười thay Nguyễn Văn Linh làm TBT; Lê Đức Anh nay nghiễm nhiên giữ vị trí thứ 2 trong Đảng, Uỷ viên thường trực BCT kiêm bí thư trung ương phụ trách cả 3 khối quốc phòng – an ninh – ngoại giao và lên chức Chủ tịch nước. Võ Văn Kiệt được giới thiệu với Nhà nước cử làm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng; Đào Duy Tùng thường trực Ban bí thư. Bộ ba Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Đào Duy Tùng nắm bộ phận thường trực của Bộ Chính trị và của Ban Bí thư. Đại tướng Võ Nguyên Giáp bị gạt ra khỏi chức uỷ viên Trung ương. Còn Nguyễn Cơ Thạch bị bật ra khỏi Bộ Chính trị và chuẩn bị thôi chức Bộ trưởng Bộ Ngoại Giao… (thực ra những thay đổi về nhân sự trong BCT đã được quyết định từ tháng 5 và Trung Quốc đã biết). Dư luận quốc tế xôn xao cho rằng Nguyễn Cơ Thạch là “vật tế thần” trong việc Việt Nam bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc. Tôi nghĩ rằng đó mới chỉ là một cách nói đơn giản vì vấn đề không chỉ là bình thường hoá quan hệ mà là phụ thuộc hoá quan hệ.
Chú thích: Đây là lúc quê hương đang bước vào giai đoạn nguy kịch vì Lê Đức Anh đã, đang và sẽ lũng đoạn đất nước theo chiều hướng dẩn cuả TC. Kết cuộc là những phần đất và biển đã lọt vào tay TC một cách êm thấm
Sau Đại hội VII, mọi vấn đề quan trọng về đối ngoại của Nhà nước đều do Hồng Hà, bí thư TƯ, phụ trách đối ngoại, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Lê Đức Anh và tất nhiên được sự tán thưởng của TBT Đỗ Mười, quyết định. Những phần công việc xưa nay vốn do Bộ Ngoại giao đảm nhiệm nay đều do Hồng Hà và Ban Đối ngoại chủ trì. Một thí dụ điển hình về vì ý đồ cá nhân họ sẵn sàng bỏ qua danh dự và quốc thể: Ngày 5.8.91, tại cuộc họp Hội đồng Bộ trưởng, Hồng Hà tuyên bố: ‘Từ nay trong quan hệ với Trung Quốc các ngành cứ tập trung ở chỗ anh Trương Đức Duy (Đại sứ Trung Quốc), không cần qua sứ quán Việt Nam ở Bắc Kinh’. Lê Đức Anh cho biết khi ở Trung Quốc, Phó ban Đối ngoại Trung Quốc Chu Lương có đề nghị: vì lý do kỹ thuật, quan hệ giữa hai Đảng xin làm qua Trương Đức Duy. Hôm sau, Hồng Hà với tư cách Trưởng ban Đối ngoại tiếp Đại sứ Campuchia Ouch Borith, đã thông báo: “Theo sự phân công của BCT Việt Nam, từ nay đồng chí Lê Đức Anh và đồng chí Hồng Hà sẽ phụ trách việc thảo luận giải pháp Campuchia và các vấn đề liên quan. Nếu lãnh đạo Campuchia muốn bàn các vấn đề trên thì đề nghị quan hệ và thảo luận trực tiếp với 2 đồng chí đó.
Ngày 9.7.91, vừa được bầu làm TBT, Đỗ Mười gặp đại sứ Trung Quốc Trương Đức Duy tỏ ý muốn cử đặc phái viên đi Bắc Kinh để thông báo về Đại hội VII và trao đổi về quan hệ giữa hai nước. Trước đó ít ngày–ngày 11.6.91 – Bộ Ngoại Giao ta cũng đã gặp đại sứ Trung Quốc đề nghị mở lại đàm phán cấp thứ trưởng ngoại giao hai nước. Ngày 17.7, Trung Quốc trả lời đồng ý gặp cấp thứ trưởng ở Bắc Kinh từ 5.8 đến 10.8. Hai ngày sau, Trung Quốc trả lời đồng ý việc ta cử đặc phái viên gặp lãnh đạo Trung Quốc, nhưng lại sắp xếp cuộc gặp đặc phái viên Đảng trước cuộc gặp thứ trưởng ngoại giao… Việc làm trên cho thấy một mặt Trung Quốc muốn gặp ta ở cả hai cấp, mặt khác muốn dùng những thoả thuận với cấp đặc phái viên để ép ta trong cuộc gặp cấp thứ trưởng ngoại giao. Để đề cao công việc này, phía Trung Quốc đã đề nghị thay chữ “đặc phái viên” thành “đoàn Đại diện đặc biệt của Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam” tuy Đoàn chỉ có 2 thành viên là Lê Đức Anh và Hồng Hà. Hồng Hà lúc đó là bí thư TƯ, phụ trách đối ngoại. Phụ tá đoàn là Trịnh Ngọc Thái, phó ban Đối ngoại của Đảng. Tôi nhớ khi đó Bộ Ngoại giao có đề nghị có một thứ trưởng ngoại giao là uỷ viên TƯ đi với đoàn để nắm tình hình vận dụng vào cuộc đàm phán cấp thứ trưởng ngoại giao ngay sau đó, nhưng đề nghị không được chấp nhận. Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc Đặng Nghiêm Hoành cũng không được tham dự các hoạt động của đoàn, trong khi đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam, Trương Đức Duy lại có mặt trong mọi hoạt động chính thức của đoàn tại Trung Quốc.
Chú thích: Thời điểm nầy Lê Đức Anh phe đảng và tình báo TC đã hoàn toàn thống trị đảng CSVN.
Ngày 28.7.91, đoàn đã đến Bắc Kinh và trong mấy ngày sau đó đã gặp Kiều Thạch, Lý Bằng, Giang Trạch Dân thông báo khá chi tiết về Đại hội VII. Thông báo cả những ý kiến khác nhau quá trình thảo luận, tranh luận và việc biểu quyết những vấn đề quan trọng trong Đại hội, và cơ cấu nhân sự của Ban Chấp hành TƯ mới…, Giang Trạch Dân và Lý Bằng tỏ ra quan tâm đến việc Việt Nam sẽ có ngoại trưởng mới (thay Nguyễn Cơ Thạch) trong kỳ họp Quốc hội tháng 8.91, Giang tỏ ý hài lòng: “Từ đáy lòng mình, tôi hết sức hoan nghênh kết quả Đại hội VII của các đồng chí Việt Nam”.
Đặc biệt mặc dù chuyến đi có mục đích gặp lãnh đạo Trung Quốc thông báo về Đại hội VII và bàn quan hệ hai nước, nhưng Lê Đức Anh và Hồng Hà đã chủ động xin gặp Từ Đôn Tín tới 2 lần, chiều 29.7 và tối 31.7 để tạ lỗi (?). Mở đầu cuộc gặp chiều 29.7, Lê Đức Anh đã nói: “Năm ngoái khi đồng chí Từ Đôn Tín sang Việt Nam đã xảy ra một số trục trặc không hay lắm do phía chúng tôi gây ra (!) Đồng chí Nguyễn Văn Linh và chúng tôi khi biết việc này, chúng tôi không vui lắm. Hôm nay gặp đồng chí, tôi nói tình cảm của đồng chí Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười và của tôi… Tình hình trục trặc trong quan hệ là một việc đau lòng, nhất là giữa những người cộng sản. Khúc nhạc cũ đã qua rồi, mong các đồng chí yên tâm”. Còn Từ thì cũng mượn dịp này để than phiền về đại sứ Đặng Ngiêm Hoành: “Một năm nay đồng chí ấy không gặp tôi, trừ khi gặp ở các cuộc chiêu đãi. Đây là lần đầu tiên tôi gặp đồng chí Hoành kể từ tháng 6 năm ngoái” (sự thực là phía Trung Quốc đã có thành kiến với anh Hoành từ trong cuộc đàm phán tháng 6.90 ở Hà Nội). Từ không quên nhắc đến điều kiện không thể thiếu có thể bình thường hoá quan hệ với Việt Nam: “Tôi rất hoan nghênh đồng chí Lê Đức Anh và đồng chí Hồng Hà là từ nay không nói diệt chủng nữa. Khi về Hà Nội nếu gặp Campuchia đề nghị các đồng chí cũng nói ý này… Nếu các đồng chí lãnh đạo Việt Nam sang Trung Quốc mà cái đuôi Campuchia vẫn còn thì chúng tôi khó nói với nhân dân. Mong vấn đề Campuchia được giải quyết thì khi bình thường hoá quan hệ chúng tôi có thể ăn nói với nhân dân Trung Quốc và nhân dân thế giới”.
Để dọn đường cho cuộc gặp cấp thứ trưởng ở Bắc Kinh tháng 8.91, tối 31.7 Hồng Hà đảm bảo với Từ Đôn Tín: “Đồng chí Lê Đức Anh và tôi sẽ làm việc trực tiếp với thứ trưởng Nguyễn Dy Niên (người được chỉ định đi đàm phán với Trung Quốc chỉ vì chưa có “tiền sử” với Trung Quốc) trước khi đồng chí ấy đi Trung Quốc. Chúng tôi phải báo cáo với BCT để có ý kiến chỉ đạo không những về nội dung mà cả về tinh thần và thái độ làm việc. Tinh thần của chúng tôi là phấn đấu làm cho cuộc gặp thành công”. Sau khi đã cam kết từ nay không nói đến vấn đề diệt chủng nữa, Hồng Hà hỏi Từ: “Tôi muốn hỏi đồng chí ngoài vấn đề diệt chủng, còn hai vấn đề gai góc là vấn đề quân đội các bên Campuchia và vai trò LHQ thì phương hướng giải quyết nên thế nào, để chúng tôi có thể góp phần làm cho cuộc gặp thứ trưởng Việt – Trung ở Bắc Kinh sắp tới đạt kết quả tốt”. Xin ý kiến đối phương và hướng giải quyết vấn đề để đàm phán trước khi đàm phán, thật là chuyện có một không hai trong lịch sử đối ngoại !
Sau khi ở Trung Quốc về, ngày 4.8.91, Lê Đức Anh và Hồng Hà gặp tôi và Nguyễn Dy Niên tại Văn phòng TƯ Đảng để chuẩn bị cho Niên đi đàm phán với Trung Quốc. Sau khi anh Niên đọc bản đề án của Bộ Ngoại Giao, tôi nói: “Anh Hoành (đại sứ ta ở Trung Quốc) vừa điện về phía Trung Quốc thông báo có 3 buổi làm việc nhưng họ nói có thể làm một buổi là xong. Chắc chắn Từ Đôn Tín sẽ đưa văn bản buộc chúng ta phải thoả thuận. Nếu ta nhận, họ sẽ xì ra cho các nước P5, ASEAN và bạn Campuchia. Ta sẽ ở vào thế phản bội đồng minh, phản bội bạn bè. Nếu ta đòi sửa văn bản của Trung Quốc thì sẽ không ra được văn bản, đàm phán sẽ thất bại. Chúng tôi đã xem lại biên bản thấy Trung Quốc gắn rất chặt vấn đề Campuchia với việc bình thường hoá quan hệ, vẫn coi Campuchia là điều kiện. Trung Quốc rất khôn, khi gặp cấp cao chỉ tập trung vào vấn đề quan hệ hai nước, còn cái xương để lại. Gặm cái xương này, chúng ta phải giải quyết vấn đề có tính nguyên tắc. Ta quyết tâm bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc nhưng không được phá quan hệ với Campuchia và không được để thế giới thay anh Việt Nam là người tráo trở”. Biết tôi quá gai góc, không chịu chấp nhận ý đồ thoả hiệp vô nguyên tắc với Trung Quốc, Lê Đức Anh và Hồng Hà chỉ nói chung chung về chuyến đi Bắc Kinh vừa qua. Hồng Hà nói: “Tinh thần tôi nắm được là ý Trương Đức Duy và Từ Đôn Tín đều lo cuộc gặp thứ trưởng thất bại. Từ có hỏi: Không biết đồng chí thứ trưởng nào gặp tôi có nắm được tinh thần này không ?” Tôi liền bảo: “Như vậy càng rõ là họ có yêu cầu cao nên họ sợ ta không thể chấp nhận được”. Hồng Hà nói: “Tôi hiểu họ muốn bình thường hoá quan hệ là chính nên họ lo”. Tôi đáp: “Về mặt này thì phải nói là Việt Nam lo hơn vì Việt Nam mót bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc hơn.” Vào cuối buổi họp, Hồng Hà nói: “Chuyến đi của anh Niên là thuận lợi, sau chuyến đi của anh Lê Đức Anh. Anh Niên cũng là nhân vật mới, không có “tiền sử”. Khi nhắc đến tháng 6.90 họ rất cay cú”. Lê Đức Anh thêm vào: “Sau tháng 6.90 lại có phát biểu với báo chí của hai bên nên càng tích tụ thêm, gắng thêm”. (ý nói đến lần sau đàm phán tháng 6.90, giữa tôi và Từ Đôn Tín có sự phê phán nhau trên báo chí). Và đến chiều, khi họp Thường trực BCT bàn về việc đàm phán với Trung Quốc họ chỉ triệu tập anh Niên, không triệu tập tôi.
Được biết trong cuộc họp này TBT Đỗ Mười đã khẳng định là không nên vì vấn đề Campuchia mà cản trở việc bình thường hoá quan hệ của ta với Trung Quốc. Về vấn đề Campuchia, họ chỉ thị cho anh Niên thoả thuận với phía TQ:
1. Không nói về vấn đề diệt chủng. Lê Đức Anh nói phải dứt khoát thôi vấn đề diệt chủng. Và TBT Đỗ Mười nhấn thêm: “Nếu nói vấn đề diệt chủng từ là đồng minh với Mỹ chống Trung Quốc” (!)………………
Tạm Kết Thúc
Từ trước có những luận cứ, từ trong nước và cả thế giới, nói về bộ chính trị CSVN đã bị phân hoá và chia ra 2 phe: phe thân TC và phe thân Nga. Chính vì sự phân hoá nầy mà đất nước Việt Nam đã phải đương đầu với cuộc chiến diệt chủng do TC tiến hành năm 1979-1991.
Thế nhưng qua những tài liệu vừa qua cho thấy rõ ràng cuộc chiến Việt-Trung xảy ra không phải vì sự xung đột Nga-Trung, mà do chính đảng CSVN tạo ra dưới bày tay điều khiển cuả tình báo TC. Sự phân chia Nga-Trung chỉ là một ngón đòn gián điệp và phản gián điệp cuả TC tạo dựng nên mà chóp bu CSVN là tay sai, thừa hành.
Nhân vật chính trong cuộc có lẻ bắt nguồn từ Lê Đức Thọ, Lê Đức Anh và “Án Sử Ba Chúc” là ngòi nổ do tình báo TC điều hành bên sau.
“Án Sử Cuộc Chiến Việt – Trung” không thể kết thúc tại đây vì nó quan trọng cho cả dân tộc Bách Việt, mong rằng các bậc thức giả Việt Nam trong và ngoài nước cùng nhau đi tìm những đáp án cho dân tộc.
Bách Việt Nhân, 09/12/2006.
bienchet
Nov 16 2009, 10:24 PM
CSVN Thảm Sát Đồng Bào làng Ba Chúc tỉnh An Giang Có ai về làng BA CHÚC, gần vùng biên giới Việt- Miên, thuộc tỉnh An Giang, xin hãy ghé thăm nhà mồ Ba Chúc được xây dựng giữa chùa Phi Lai và chùa Tam Bửu được Nhà nước CSVN công nhận là “Di Tích Căm Thù” vào năm 1980, để đánh dấu tội ác man rợ của bọn diệt chủng Pôn Pốt qua 11 ngày (từ 18 đến 29/4/1978) đã xâm lược và sát hại trên 3,000 đồng bào vô tội tại xã Ba Chúc.
Nhà mồ hình lục giác, bên trong nhà mồ là một khung hộp kính có 8 cạnh, chỉ còn chứa đựng 1.159 bộ hài cốt được phân loại giới tính, tuổi tác… Sự thật như thế nào? Ai đã ra lệnh tàn sát tập thể trên 3,000 đồng bào vô tội? Có phải tên đồ tể Pôn Pốt ra lệnh cho bọn diệt chủng Khmer Ðỏ giết vì hận thù chủng tộc? Hay tên đồ tể nào khác ra lệnh giết vì nhu cầu phục vụ cho một âm mưu chính trị đen tối nào đó?
Ngày 6/4/2004 vừa qua. Nhân dịp báo Toledo Blade đã đoạt giải báo chí Pulitzer về loạt bài phóng sự điều tra về những vụ thảm sát thường dân của một số binh sĩ Hoa Kỳ trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam. Người phát ngôn Bộ Ngoại Giao CSVN Lê Dũng nói: “Hành động tàn sát dã man thường dân vô tội Việt Nam của một số binh sĩ Hoa Kỳ, trong đó có vụ việc được báo Toledo Blade nêu ra là hành động tội ác, vi phạm luật quốc tế, gây công phẫn trong dư luận. Việc một giải báo chí danh tiếng được trao cho báo Teledo Blade cho thấy công luận Hoa Kỳ đã ghi nhận đóng góp của báo nầy trong việc điều tra, đưa ra ánh sáng những tội ác đã bị che giấu trong nhiều năm, góp phần đem lại công bằng cho các nạn nhân và ngăn chận những tội ác như vậy xảy ra trong tương lai…”
Sau khi chúng tôi nhận được lá thư tố cáo tội ác CS Việt Nam giết người tập thể lại làng Ba Chúc của ông Trần H. gởi cho chúng tôi. Lá thơ đề ngày 21 tháng 5 năm 1999. Từ đó, chúng tôi đã âm thầm điều tra, nghiên cứu và phối kiểm các tài liệu trong và ngoài nước, các dữ kiện do những nhân chứng còn sống, hiện đang định cư tại tiểu bang Virginia và Maryland cung cấp… và đã đến lúc chúng tôi phải làm theo lời yêu cầu của ông Lê Dũng, người phát ngôn Bộ Ngoại Giao CS Việt Nam, mở lại hồ sơ vụ án, đưa “sự cố” nầy ra trước ánh sáng để dư luận Quốc Tế, trong và ngoài nước biết thêm về tội ác tày trời, giết người tập thể còn dã man, khủng khiếp hơn cả Tết Mậu Thân 1968.
Nạn nhân gồm cả đàn bà, trẻ con Việt Nam lẫn Cam Bốt bị thảm sát tại các chùa, trường học tại làng Ba Chúc cách biên giới Việt – Miên khoảng 7 cây số, và chỉ trong vòng một đêm tắm máu: 18 tháng 4 năm 1978 (chớ không phải 11 ngày như bọn CSVN rêu rao) số người bị giết chính xác là 3.157 người. Có như thế mới góp phần đem lại công bằng cho các nạn nhân bị lính Mỹ thảm sát trong thời kỳ chiến tranh và các nạn nhân bị lực lượng vũ trang thuộc Quân Ðội Nhân Dân tàn sát tập thể đồng bào sau khi thống nhất đất nước bằng vũ lực.
Còn cái dã man, vô nhân đạo nào bằng là bọn CSVN đã đem những bộ hài cốt của những nạn nhân do chúng thảm sát, đem trưng bày trong những hộp kính để gây ảo giác căm thù chủng tộc Việt Nam – Cam Pu Chia; thay vì, đem chôn cất họ tử tế cho phù hợp với truyền thống và đạo lý dân tộc: nghĩa tử là nghĩa tận. Những nguyên nhân chính đưa đến việc Tập đoàn Lãnh đạo Ðảng CSVN đã không ngần ngại tắm máu dân làng Ba Chúc vào đêm 18 tháng 4 năm 1978 như sau:
I. TÌNH HÌNH NỘI BỘ VIỆT NAM – CAM BỐT SAU NĂM 1975:
Theo sự tiết lộ của Hoàng Tùng, Tổng biên tập báo Nhân Dân và là Ủy viên Bộ Chính Trị Trung Ương Ðảng CSVN: Bắc Bộ Phủ đã có ý đồ chiếm Cam Bốt từ năm 1970 – 1972. Cuối năm 1976, Ðại hội IV Ðảng Lao Ðộng đổi thành Ðảng CS Việt Nam dưới sự giám sát của lý thuyết gia Mikhai A. Suslov, trưởng phái đoàn Sô Viết thì hầu hết Ủy viên trong Bộ Chính Trị đã nối đuôi Lê Duẩn thần phục Mạc Tư Khoa: Võ Nguyên Giáp, Trần Quốc Hoàn, Văn Tiến Dũng, Nguyễn Văn Linh, Ðỗ Mười. Những tên thân Trung Cộng như Lê Ðức Thọ, Nguyễn Duy Trinh, Phạm văn Ðồng, Phạm Hùng… phải đổi phía để sống còn. Ngay cả Trường Chinh cũng tỏ ra ôn hòa. Và Ðại Hội IV của Ðảng CS Việt Nam chấp thuận đề án của Lê Duẩn xúc tiến việc thành lập Liên Bang Ðông Dương bằng cách thuyết phục và nếu cần dùng áp lực quân sự để buộc Cam Bốt và Lào gia nhập. Tưởng cũng nên nhắc lại: Tháng 9 / 1975, khi Sihanouk va Khieu Samphan, Chủ Tịch Nước của chế độ Khmer Ðỏ đến Hà Nội dự lễ Quốc Khánh của CS Việt Nam. Phạm văn Ðồng mời phái đoàn Căm Pu Chia dự tiệc thân mật với phái đoàn MTGPMN Việt Nam và Lào. Nhưng, Khieu Samphan từ chối và sau đó giải thích với Sihanouk rằng đó là cái bẫy của CS Việt Nam để tiến tới thành lập Liên Bang Ðông Dương. Sau Ðại hội IV, Lê Duẩn và BCT/TƯ/Ðảng CS nhận thức rằng: Việt Nam nằm trong quỹ đạo của Liên Xô là đối lập với Trung Quốc và sự liên kết giữa Trung Quốc và Cam Pu Chia sẻ áp lực quân sự nặng nề tại vùng biên giới phía Tây Nam.
II. NHỮNG CUỘC XUNG ÐỘT VŨ TRANG GIỮA VIỆT NAM VÀ CAM PU CHIA TẠI VÙNG BIÊN GIỚI PHÍA TÂY NAM:
1. QUÂN ÐỘI CAM PU CHIA TẤN CÔNG VIỆT NAM LẦN THỨ NHẤT VÀO NĂM 1977:
THÁNG 3 NĂM 1977: Ieng Sary, Ngoại trưởng Khmer Ðỏ sang Bắc Kinh nối lại mối quan hệ thân thiết cũ. Trong buổi tiếp tân có Lý Tiên Niệm, Phó Thủ Tướng và tướng Vương Thăng Long, Tổng Tham Mưu Phó QÐ Trung Quốc khoản đãi phái đoàn Cam Pu Chia cho thấy sự hợp tác gắng bó giữa hai nước.
THÁNG 4 NĂM 1977: như để cảnh báo Việt Nam. Trong buổi tiếp tân tại Tòa Ðại Sứ Cam Pu Chia, Ngoại trưởng Hoàng Hoa công khai tuyên bố: nước Cam Pu Chia đang bị kẻ thù phá hoại và Trung Quốc sẽ sát cánh với những dân tộc nhỏ yếu chống lại những hành động can thiệp và gây hấn của các lân bang. Nhận được sự hậu thuẫn của Trung Quốc, hai tuần sau, đúng vào ngày Việt Nam tưng bừng kỷ niệm năm thứ hai “Mùa xuân đại thắng 1975”, quân đội Cam Pu Chia bất thần mở cuộc tấn công qui mô vào những làng, xã và những thị trấn dọc biên giới thuộc tỉnh An Giang. Và sau đó rút về bên kia biên giới.
2. QUÂN ÐỘI CAM PU CHIA TẤN CÔNG VIỆT NAM LẦN THỨ HAI VÀO TỈNH TÂY NINH:
NGÀY 27 THÁNG 9 NĂM 1977: tên đồ tể Pol Pot lên đài phát thanh đọc bài diễn văn dài 5 tiếng đồng hồ, chính thức xác nhận vai trò lãnh đạo của mình và tổ chức Angka là Ðảng Cộng Sản Cam Pu Chia. Một ngày sau khi ra mắt, Pol Pot lên đường đi Bắc Kinh và Bình Nhưỡng. Lần đầu tiên công du với tư cách là Chủ tịch Ðảng và Thủ Tướng. Pol Pot được đón tiếp trọng thể. Cờ và biểu ngữ giăng đầy Thiên An Môn.
Ba ngày trước đó, để chứng tỏ quyết tâm chống Việt Nam của mình đối với Trung Quốc. Pol Pot đã ra lệnh cho Quân đội Quân Khu Ðông tấn công vào lãnh thổ Việt Nam thuộc tỉnh Tây Ninh. Việt Nam vẫn tự hạn chế. Không cho bộ đội vượt biên phản công đồng thời cách chức Tướng Tư Lệnh quá khích Trần văn Trà và Tướng Lê Ðức Anh thay thế. Một mặt, Ðảng CS Việt Nam gởi điện văn chúc mừng lễ ra mắt Ðảng Cộng Sản Cam Pu Chia. Một mặt, bí mật gởi Phan Hiền sang Bắc Kinh nhờ Trung Quốc dàn xếp cho gặp phái đoàn Cam Pu Chia. Cuộc tiếp xúc không đi đến đâu. Bộ Chính Trị Ðảng Cộng Sản Trung Quốc đều nhất trí ủng hộ Kmer Ðỏ. Trung Quốc bắt đầu ồ ạt chở vũ khí và chiến cụ tới cảng Komphong Som để trang bị tận răng cho quân đội Cam Pu Chia. CSVN buộc phải đứng hẳn về phía Liên Xô tìm cách phản công chống lại Khmer Ðỏ quyết liệt hơn.
3. QUÂN ÐỘI VIỆT NAM PHẢN CÔNG VÀO NỘI ÐỊA CAM PU CHIA CUỐI NĂM 1977:
VÀO NHỮNG NGÀY CUỐI NĂM 1977: Lực lựơng vũ trang QÐCS Việt Nam mở những trận tấn công thăm dò vào sâu trong lãnh thổ Cam Pu Chia. Quan hệ ngoại giao giữa hai bị cắt đứt và công khai hóa sự tranh chấp lãnh thổ và điều động thêm lực lượng vũ trang tăng cường hệ thống phòng thủ dọc theo biên giới. Bị Quốc tế tố cáo và lên án xâm lăng Cam Pu Chia, quân đội viễn chinh của CS Việt Nam buộc phải rút về nước vào ngày 6 tháng 1 năm 1978.
4. QUÂN ÐỘI CAM PU CHIA TẤN CÔNG VIỆT NAM LẦN THỨ BA VÀO NHỮNG THÁNG ÐẦU NĂM 1978:
NGAY TỪ NHỮNG NGÀY ÐẦU THÁNG GIÊNG NĂM 1978: Tại vùng biên giới cực Nam. Các đơn vị trực thuộc Sư Ðoàn 2 và 210 của Quân khu Tây Nam Cam Pu Chia đã tấn công và chiếm đóng các xã Phú Cường, Khánh An, Khánh Bình và các huyện Hồng Ngự và Hà Tiên thuộc lãnh thổ Quân khu IX Việt Nam. Và đây là cuộc tấn công vào lãnh thổ Việt Nam lần cuối cùng, vì họ sẽ chẳng còn có cơ hội nào vượt biên tấn công Việt Nam nữa. Tướng Trần Nghiêm nguyên là Tư lệnh Phó của Tướng Lê Ðức Anh. Sau khi Lê Ðức Anh thay Trần Văn Trà. Trần Nghiêm được đề bạt lên làm Tư Lệnh Quân Khu IX, chịu trách nhiệm điều động 3 sư đoàn chính quy cơ hữu, gồm các Sư đoàn 4, 8 và 330 cùng với 2 trung đoàn chủ lực cơ động tĩnh Hậu Giang và Ðồng Tháp. Sư đoàn 341 do tướng Vũ Cao làm Tư Lệnh được điều từ Quân Khu VII đến tăng phái cho Quân Khu IX cùng với sự yểm trợ của không quân, pháo binh, thiết giáp… với số quân áp đảo: 4 Sư đoàn chính quy và 2 Trung đoàn cơ động của CSVN và lực lượng yểm trợ hùng hậu như vậy, mà phải mất hai tháng phản công mới đánh bật sư đoàn 2 và 210 của Cam Pu Chia ra khỏi biên giới và tái chiếm lại lãnh thổ đã mất.
ÐẦU THÁNG 3 NĂM 1978: Tình hình biên giới phía Tây Nam hoàn toàn yên tĩnh. Sư đoàn 341 được trả về Quân đoàn 4 /QKVII sau khi hoàn thành nhiệm vụ. Tướng Trần Nghiêm tái phối trí ba sư đoàn cơ hữu 4, 8, 330 và 2 trung đoàn cơ động tĩnh Hậu giang và Ðồng Tháp vào nhiệm vụ phòng thủ diện địa. Riêng Sư Ðoàn 330 được chỉ định thành lập tuyến phòng thủ an ninh lãnh thổ huyện Tri Tôn.
5. TÌNH HÌNH CAM PU CHIA SAU KHI SƯ ÐOÀN 2 VÀ 210 RÚT VỀ BÊN KIA BIÊN GIỚI:
BẮT ÐẦU TỪ THÁNG 3 NĂM 1978 và những tháng sau đó. Cuộc thanh trừng nội bộ ở Quân Khu Ðông càng ngày càng trở nên gay gắt và lên đến cao điểm vào ngày 24 tháng 5 năm 1978, quân của Ke Paulk – Bí thư Khu ủy Trung tâm của Khmer Ðỏ – thuộc quân khu Trung Ương kéo đến SOUNG, bao vây tổng hành dinh của quân khu Ðông, bắt giam tất cả sĩ quan chỉ huy và nhiều cuộc chạm súng đã xảy ra giữa đôi bên. Sau cuộc thanh trừng, Sư đoàn 4 coi như bị xóa sổ. Các sư đoàn còn lại gồm 3, 5, 280 bị suy yếu hẳn.
Bộ Chính Trị/TƯ/ Ðảng CSVN không bỏ lỡ cơ hội, triệt để khai thác nhược điểm của địch là sự xâu xé nội bộ và mâu thuẫn hàng ngũ của Khmer Ðỏ theo đúng sách lược của Lénine: “Phải chộp thật nhanh cơ hội chia rẽ của địch”, bằng cách ráo riết chuẩn bị: tâm lý quần chúng và dư luận quốc tế. Ðó là lý do bọn CSVN đạo diễn tấn thảm kịch cực kỳ dã man, tàn bạo và ghê tởm: tắm máu 3.157 đồng bào vô tội tại làng Ba Chúc trong đêm 18/4/1978, rồi đổ tội cho bọn đồ tể Khmer Ðỏ gây ra. Hành động ném đá dấu tay là thủ đoạn chính trị gian trá, bỉ ổi và dơ bẩn của bọn CSVN đã và đang đánh lừa dư luận hơn hai thập niên qua, đã đến lúc phải được phô bày ra ánh sáng cho công luận xét xử.
III/ PHẢI TRẢ LẠI SỰ THẬT CHO LỊCH SỬ:
Như chúng tôi đã trình bày ở phần trên. Sau khi phối kiểm và phân tách tỉ mỉ thơ tố cáo của ông Trần H. và Câu chuyện làng Ba Chúc ở biên giới Miên -Việt của ông Hoàng Quý, đưa lên lenduong. Net ngày 5/02/04. Ông Trần H. quy trách nhiệm cho bọn CSVN gây nên cái chết cho trên 3,000 đồng bào vô tội tại làng Ba Chúc. Còn ông Hoàng Quý thì quy trách nhiệm tội ác nầy do đồ tể Pol Pot, nhưng đưa ra con số nạn nhân chính xác là 3.157 người. Mốc thời gian là ngày 18/4/1978. Nhưng, tài liệu về Cụm nhà mồ Ba Chúc mà tôi đọc được trên Saigonnet thì tội ác man rợ nầy do bọn Pon Pot gây ra từ 18/4/1978 đến ngày 29/4/1978 (11 ngày). Một điểm trùng hợp rất quan trọng là ông Trần H. và Hoàng Quý đều xác nhận là tất cả các nạn nhân đều bị thảm sát tại các chùa và trường học. Chỉ nội một điểm nầy thôi cũng đủ tố cáo bọn CSVN là đích danh thủ phạm.
Ông Trần H. nói (nguyên văn): “…CSVN đưa Sư Ðoàn 30 CSBV án ngữ dầy đặc dọc biên giới Miên Việt tỉnh Châu Ðốc cũ. Chiều đến thì bọn cán bộ và và bộ đội Cộng Sản bắt dân tập trung vào chùa hay trường học ngủ để chúng bảo vệ. Nửa đêm, dân đang ngủ mê. Chúng giả bộ đội Miên tấn công vào chùa và trường học bằng lựu đạn, cổng ngoài khóa chặt. Sau đó, chúng nổi lửa đốt sạch làm hằng ngàn dân vô tội phải chết oan uổng dưới bàn tay vô thần của CSVN. Nhứt là tại làng Ba Chúc thuộc quận Tri Tôn, tỉnh An Giang, có trên 3,000 người bị chúng giết tập thể. Nay chúng cho xây một ngôi nhà kiến để chứa đống xương vô định chất cao bằng đầu… ”
Ông Hoàng Quý nói (nguyên văn): “…Thời cuộc đã biến chuyển khôn lường, sau đó chính 2 lực lượng anh em này quay mũi súng vào nhau, lực lượng vũ trang của Khờ me đỏ đã tấn công vào làng Ba Chúc, cách biên giới khoảng 4 dậm, vào ngày 18-04-1978… Tổng cộng có 3.157 người cả Việt Nam lẫn Cam bốt bị thảm sát tại các chùa và trường học tại Việt Nam. Những cuộc tấn công khác tương tự như trường hợp nầy là những lý do mà cộng sản Việt Nam nêu lên để xua quân tiến chiếm Cam Bốt vào cuối năm đó…”
IV. VẠCH TRẦN TỪNG ÐIỂM CHỨNG MINH TỘI ÁC CỦA CSVN TRƯỚC DƯ LUẬN QUỐC TẾ VÀ ÐỒNG BÀO TRONG & NGOÀI NƯỚC:
* Ðiểm một: Chúng tôi không thấy chính quyền địa phương đề cập đến con số thiệt hại nhân mạng về phía thường dân sau 3 lần tấn công vào lãnh thổ Việt Nam, đặc biệt là 2 tháng đầu năm 1978 là thời gian quần thảo dữ dội giữa 4 sư đoàn, 2 trung đoàn cơ động CSVN với lực lượng yểm trợ hùng hậu để đánh bật 2 sư đoàn Cam Pu Chia ra khỏi biên giới. Ðiều đó chứng tỏ rằng, người nông dân Miền Tây Nam Bộ đã tích lũy quá nhiều kinh nghiệm đau thương qua bao thế thệ chạy giặc: giặc Tây thực dân đi bố, giặc Việt Minh Cộng Sản thu thuế, giết người đoạt của, giặc Thổ dậy “Cáp Duồn”… nên phản ứng của họ vô cùng bén nhạy. Mỗi khi có biến động là nhà nhà báo động bằng đủ mọi phương tiện: Gõ mõ, gõ thùng thiếc, gióng trống, khua chiêng, nồi, niêu, xoong, chảo… để kịp thời bồng bế nhau chạy giặc “bỏ của chạy lấy người”. Họ không bao giờ nằm yên trong nhà, ngoan ngoãn chờ cho bọn Khmer Ðỏ đến lùa họ đi. Và một điều chắc chắn là khi họ nhận diện binh lính Khmer Ðỏ, họ sẽ chạy bung ra, chạy tán loạn, chạy bán sống bán chết giống như hồi Tết Mậu Thân 1968, dân Miền Nam chạy giặc Việt Cộng, dễ dầu gì bọn Khmer Ðỏ tập trung họ vào các chùa, trường học một cách dễ dàng để tàn sát tập thể. Hơn nữa, địa thế làng Ba Chúc dưới chân núi Tượng và bên kia là núi Dài là một địa thế lý tưởng cho đồng bào lẩn trốn dễ dàng.
Chúng tôi xin dẫn chứng một trường hợp điển hình: Những vị cao niên nào sống miền Tây Nam Bộ thuộc các tỉnh Châu Ðốc, Vĩnh Long, Vĩnh Bình, Sóc Trăng… chắc chưa quên những cuộc nổi dậy bất thần đầy chết chóc của những đồng bào người Việt gốc Miên sống trong các “sóc” vùng sâu. Và danh từ “Thổ dậy” là tiếng báo động khẩn cấp đồng bào Việt gọi nhau chạy lánh nạn. Những người Miên từ trong các sóc đồng loạt ùa ra, tay cầm phảng, cuốc, xẻng… tay cầm chai rượu “phất xạ” (uống rượu), họ ào ạt xông vào các xóm làng của đồng bào ta như cơn gió lốc, rượt đuổi dân làng chạy tán loạn. Họ vừa chạy, vừa thét: “Dơ! Cáp Duồn, bòn ới” (Nào! Giết tụi Việt Nam, bây ơi!” Trong đơn say rượu, say máu, họ gặp đàn bà chém theo đàn bà, trẻ con đâm theo trẻ con, gặp đâu chém đó. Bọn đồ tể Khmer Ðỏ cũng thế! Một khi tràn qua biên giới Việt Nam, họ có lòng nhân đạo đến độ phải tập trung đồng bào ta vào các chùa chiềng đọc kinh cầu nguyện trước khi hành quyết, hoặc dồn trẻ con vào các trường học vì sợ bọn trẻ chết xuống dưới âm phủ sẽ trở thành những con ma mù chữ?
* Ðiểm hai: Nếu như muốn cưỡng bách trên 3,000 người sống rải rác trong làng Ba Chúc với một địa thế hiểm trở như thế, cách biên giới Việt Miên khoảng 7 km và cách kinh Vĩnh Tế khoảng 5 km vào các địa điểm tập trung. Chúng tôi nghĩ, Pol Pot phải huy động bao nhiêu sư đoàn Khmer Ðỏ mới làm nổi được việc đó? Và làm thế nào những sư đoàn nầy lọt qua tuyến phòng thủ biên giới Tây Nam dầy đặc của 3 sư đoàn chính quy 4, 8, 330 của CSVN và 2 trung đoàn cơ động tĩnh? Và hơn thế nữa, bọn đồ tể Khmer Ðỏ làm thế nào kéo dài cuộc thảm sát trong suốt 11 ngày đêm mà các đơn vị chịu trách nhiệm phòng thủ biên giới của CSVN thuộc Quân khu IX không hề hay biết và không có phản ứng gì cả? Chẳng lẽ, tất cả đều ngủ gục cả? Hay bận lo đi ăn trộm trâu của đồng bào?
Chúng tôi cũng xin nhắc lại: Trước 30/4/1975, Quân Ðoàn 4/ QLVNCH chỉ có 3 Sư đoàn chủ lực 7, 9 và 21 BB đã hành quân truy lùng và càn quét các lực lượng vũ trang chính qui CSBV để bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ 16 tỉnh Miền Tây và làm chủ tình hình cho đến 10 giờ sáng ngày 30/4/1975, chưa hề để một quận, một tỉnh nào lọt vào tay quân CSBV xâm lược. Và nếu như 3 sư đoàn kể trên được phối trí vào nhiệm vụ phòng thủ biên giới phía Tây Nam thì chưa chắc một con chuột chui qua lọt, đừng nói chi là một đơn vị nhỏ của quân CSBV.
* Ðiểm ba: Thời điểm bọn Khmer Ðỏ thảm sát đồng bào tại làng Ba Chúc từ 18/4/1978 đến 29/4/1978 lại càng không hợp lý. Vì trong thời gian đó, ở bên kia biên giới, cuộc thanh trừng nội bộ đang xảy ra, gay gắt và quyết liệt ở Quân khu Ðông sắp lên đến cao điểm. Làm sao Pol Pot có thể điều động quân đội Cam Pu Chia tấn công Việt Nam?
* Ðiểm bốn: Người nông dân Việt Nam nói chung và Miền Tây Nam Bộ nói riêng, họ chỉ bằng lòng di dân vào các địa điểm tập trung an toàn dưới sự hướng dẫn của chánh quyền địa phương và sự bảo vệ an ninh của quân đội. Hệ thống “Ấp Chiến Lược” được thiết lập trong thời chiến tranh Việt Nam là một thí dụ điển hình. Ðiều nầy khẳng định phải là cán bộ và bộ đội CSVN mới có thể tập trung dân làng vào các địa điểm ấn định theo kế hoạch đã vạch sẵn. Và Sư Ðoàn 30 (tên gọi tắt của đồng bào địa phương) chính là Sư Ðoàn 330 chính quy, được chỉ định thi hành công tác nầy vào chiều ngày 18/4/1978 vì sư đoàn 330 được thành lập tại Miền Nam trước khi tập kết ra Miền Bắc (lúc đó, Tư Lệnh là tướng Ðồng văn Cống) thì dân làng Ba Chúc mới có lòng tin đi theo chúng vào các chùa và trường học để được chúng bảo vệ an ninh. Sau đó, chúng khóa chặt cửa lại, chờ khi đêm đến, bộ đội CSVN đội lốt quân Khmer Ðỏ kéo đến giết sạch, đốt sạch đúng như lời tố cáo của ông Trần H. và đó là sự thật 100% không thể chối cãi. Hiện nay, một vài nhân chứng có thể còn sống sót như bà Trần thị C., ông Nguyễn văn Ch… và một nhân chứng quan trọng là một thầy giáo cấp 2 ở kinh Vĩnh Tế tên Tr. Q. L.đã dám nói lên sự thật với đồng bào địa phương nên bị đuổi khỏi nhiệm sở và bị tên Giám đốc Công an tỉnh An Giang – bí danh Sáu Nhỏ – bắt giam 2 năm để cảnh cáo. Hiện giờ, không biết ông còn sống hay đã chết…
*Ðiểm năm: Tại sao bọn CS Việt Nam chọn dân làng Ba Chúc cách biên giới đến 7 km để tàn sát tập thể? Trước năm 1975, có ai đặt chân lần đầu đến làng Ba Chúc dưới chân núi Tượng và bên kia núi Dài, đều ngạc nhiên trước hết là nhìn đâu đâu cũng thấy chùa: trước mặt, sau lưng, bên phải, bên trái. Phần nhiều những ngôi chùa được xây cất rất đồ sộ, nền đá tường gạch. Nhưng, đặc biệt chùa nào cũng giữ theo truyền thống là lợp lá. Vào thời đó, riêng tại làng Ba Chúc có khoảng 15,000 tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương thờ vị Giáo Tổ Ðức Phật Thầy Tây An. Lấy giáo lý Phật Giáo Hòa Hảo do Ðức Huỳnh Giáo Chủ đề xướng: Tứ Ân, Bát Chánh, Bát Nhẫn và tám điều răn của Ðức Thầy để tu thân. Ðiều nầy minh chứng dã tâm của bọn CSVN vừa muốn tiêu diệt tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo vừa muốn đốt sạch luôn cả các chùa chiềng, nơi tín đồ PGHH thờ phượng các đấng thiêng liêng.
V. KẾT LUẬN:
Sau vụ thảm sát đẫm máu và cực kỳ man rợ khiến trên 3,000 đồng bào vô tội oan thác tại làng Ba Chúc trong đêm 18/4/1978. Ðộc chiêu “Ném đá dấu tay”, rồi giở trò “Mèo khóc chuột” của bọn CSVN đã thành công trong âm mưu tạo ra kẻ thù Khmer Ðỏ bằng xương, bằng thịt để kích động lòng hận thù chủng tộc Việt Nam – Cam Pu Chia, rồi triệt để khai thác sức mạnh lòng căm thù của quần chúng vào mục tiêu chính trị và quân sự để chuẩn bị xâm lăng Cam Pu Chia.
Tất cả bộ máy chiến tranh tâm lý của CSVN được động viên vào việc tuyên truyền rầm rộ. Những cuộc biểu tình, hội thảo diễn ra khắp nơi, các đài phát thanh, phát hình trong nước mở tối đa công suất lên án bọn diệt chủng Pol Pot đã xâm lược và sát hại hàng ngàn người dân xã Ba Chúc để tranh thủ dư luận Quốc Tế: Quân đội CSVN xua quân tấn công Cam Pu Chia chỉ vì lý do tự vệ chánh đáng chớ không phải xâm lăng Cam Pu Chia như đã từng bị lên án trước đó.
Ngày 15/6/1978. Chiến dịch tấn công Cam Pu Chia mở màng. Các sư đoàn chính quy 7, 9, 341 cùng với các vị yểm trợ hùng hậu lại tràn qua biên giới Việt – Miên, chiếm đóng một phần lãnh thổ sâu trong nội địa Cam Pu Chia từ 10 đến 40 km, trong đó có quận Prasaut. Lúc đó nhằm vào mùa mưa, Cam Pu Chia tăng cường thêm nhiều sư đoàn từ các nơi đến để phản công. Từ Prasaut, quân CSVN phải lùi về Chipru…
Virginia, ngày 18 tháng 4 năm 2004
NGUYỄN VĨNH LONG HỒ
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
Chiến tranh Ðông Dương 3 của ông Hoàng Dung.
Tài liệu giải mật về cuộc chiến Hoa Việt 1979 của ông Lâm Lễ Trinh.
Nửa tháng trong miền Thất Sơn của ông Nguyễn văn Hầu
Thư tố cáo tội ác CSVN tại làng Ba Chúc đề ngày 21/5/1999 của ông Trần H.
Câu chuyện ngôi làng Ba Chúc ở biên giới Miên Việt của ông Hoàng Quý.
This is a “lo-fi” version of our main content. To view the full version with more information, formatting and images, please click here.
Invision Power Board © 2001-2011 Invision Power Services, Inc.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét