Nội dung cuộc hội đàm, ghi lại từ nhiều phía, cho thấy có nhiều điều khác biệt.
Theo Tân Hoa Xã : « Đồng chí Quách Bá Hùng đã nêu đề nghị 3 điểm về phát triển quan hệ quân đội hai nước Trung-Việt: Một là, tăng cường tiếp xúc chiến lược, nắm vững định hướng đúng đắn phát triển quan hệ Trung-Việt; hai là, coi trọng tuyên truyền hướng dẫn, tích cực tạo bầu không khí hữu nghị, đoàn kết, hợp tác Trung-Việt; ba là, làm phong phú nội dung giao lưu, nỗ lực nâng cao trình độ hợp tác thiết thực giữa quân đội hai nước. » Bản tin này không hề nói đến chủ đề tranh chấp biển Đông.
Theo báo chí Việt Ngữ, nội dung đàm phán có các vấn đề : giải quyết tranh chấp biển Đông và việc hợp tác quân sự song phương.
Theo tin từ nguồn Chính Phủ VN, dẫn từ TTXVN, trích lời của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, nhân dịp tiếp đón ông Quách Bá Hùng, về vấn đề tranh chấp biển Đông : « đề nghị hai bên cùng nhau đàm phán, thảo luận hòa bình để tìm ra những giải pháp mang tính cơ bản, lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được. » Bản tin này ghi nhận « một thỏa thuận được hai bên ký kết nhằm mục đích hợp tác đào tạo năm 2011 ». So sánh ở hai bản tin TTX VN và Tân Hoa Xã, ta thấy phía Trung Quốc đặt nặng vấn đề tâm lý quốc phòng, vì họ không muốn thấy dư luận VN thù nghịch với họ. Trong khi VN dường như muốn sử dụng vấn đề hợp tác quốc phòng với TQ như là một điều kiện cho việc giải quyết tranh chấp biển Đông. Việc này VN cũng đang làm tương tự với Hoa Kỳ. Như thế, ở các điểm mấu chốt, vấn đề tranh chấp biển Đông, phía VN đã được giao cho phe quốc phòng, thay vì do phe ngoại giao phụ trách, như thường lệ trước đây hay thường thấy ở các nước khác.
Nhưng theo thông tin của chính phủ Đài Loan, Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng đã tuyên bố nhân dịp này Việt Nam và Trung Quốc đã ký kết một « thỏa thuận về hợp tác chặt chẽ nhằm phát triển các biện pháp cơ bản cho các vấn đề đã thảo luận ». Các vấn đề thảo luận ở đây dĩ nhiên là hai vấn đề : tranh chấp biển Đông và việc hợp tác quân sự song phương. Nguồn tin này cũng cho biết phía Phi Luật Tân cũng đã cực lực phản đối tuyên bố này của Nguyễn Tấn Dũng. Dĩ nhiên việc này của cũng là nguyên nhân tuyên bố của Đài Loan về chủ quyền các đảo HS và TS. (Nguồn : http://taiwaninfo.nat.gov.tw/ct.asp?xItem=160218&CtNode=458&htx_TRCategory=&mp=4 ).
Báo chí Việt Ngữ hải ngoại như BBC và RFA, ngoài việc đưa tin tức về tuyên bố của Đài Loan về việc tái khẳng định chủ quyền các đảo HS và TS tại biển Đông, cũng đã đăng bài phỏng vấn các nhận định của học giả Việt Nam về thái độ của Đài Loan qua việc đảo quốc này tuyên bố khẳng định chủ quyền. Nhưng không thấy nguồn tin nào đề cập đến thỏa thuận giữa hai bên Việt Nam và Trung Quốc đã được ký kết như nguồn tin của Đài Loan đã dẫn.
Ta thấy việc loan tin cùng một vấn đề, ở đây là nội dung của cuộc đàm phán, đã được cơ quan ngôn luận các bên loan tải theo lối « có lợi cho phe mình », không bên nào phù hợp với bên nào. Báo chí bám lề trong nước dĩ nhiên chỉ đăng những tin mà nhà nước muốn phổ biến. Còn báo chí tự do thì chỉ nói đến những thứ độc giả thích đọc. Lý ra, điều cần tìm hiểu là bản tin của chính phủ Đài Loan có đúng với sự thật hay không ? nếu đúng thì việc « phát triển các biện pháp cơ bản » (cho việc giải quyết tranh chấp biển Đông giữa hai nước Việt Nam và Trung Quốc) sẽ như thế nào ? Việc hợp tác quốc phòng hai bên sẽ được nâng cao lên đến trình độ nào ? Những vấn đề mấu chốt của đàm phán thì không thấy báo chí nào bàn đến. Xem chừng các việc này thuộc về « bí mật quốc phòng », do đó việc đi tìm sự thật trên các mặt báo sẽ là điều không tưởng.
Việc Đài Loan khẳng định chủ quyền tại các đảo ở biển Đông không phải là điều mới mẻ. Nếu chỉ nhắc những việc gần đây, ngày 04 tháng 02 năm 2009, Đài Loan ra tuyên bố tái khẳng định chủ quyền của họ đối với các đảo ở biển Đông. Việc lên tiếng này sau khi lưỡng viện quốc hội Philippines lần lượt vào các ngày 28 tháng 1 và 2 tháng 2 thông qua luật sáp nhập các đảo nhỏ và rặng san hô thuộc quần đảo Trường Sa vào lãnh thổ của họ. Các động thái của Đài Loan trên đảo cũng không phải là hiếm hoi. Tháng 2 năm 2008, tổng thống Trần Thủy Biển đã đáp phi cơ ra đảo Ba Bình. Trước đó, Đài Loan cũng đã cho xây một phi đạo dài 1150m, bất chấp phản đối của các nước có tranh chấp như VN và các nước khác. Việc này xem ra còn hệ trọng hơn cả việc thay thế đội phòng thủ duyên hải bằng quân Thủy quân lục chiến. Trong khi đó, thực ra việc đổi quân này nằm trong kế hoạch hiện nay của tổng thống Mã Anh Cửu là « chuyên nghiệp hóa » quân đội Đài Loan. Gần nhất, tháng 3 năm 2011, Đài Loan còn cho hải quân tập trận bằng đạn thật tại vùng biển chung quanh đảo Ba Bình.
Dầu vậy, nhân việc dư luận Việt Nam đang chú tâm đến phản ứng của Đài Loan, qua việc báo chí thổi phồng sự kiện, nhân đảo quốc này tái khẳng định chủ quyền tại HS và TS. Tác giả bài viết này sẽ thử đưa một cái nhìn khác, về thái độ chính trị của Đài Loan trước những động thái của các nước liên quan đến vấn đề tranh chấp chủ quyền các quần đảo HS và TS cũng như vùng nước chung quanh, đồng thời điểm qua sách lược an ninh quốc phòng của đảo quốc này về các đảo ở biển Đông.
Theo người viết, phản ứng của Đài Loan mới đây về HS và TS nhằm hai mục đích : 1/ Củng cố quốc phòng tại các đảo Trung Sa và Thái Bình (tức Ba Bình) nhằm phòng ngừa các phản ứng sắp tới của Trung Quốc sau khi chiến hàng không mẫu hạm (nghe nói đặt tên là Thi Lang) vừa hạ thủy tại cảng Đại Liên và sẽ được đưa vào hoạt động vào tháng 11 tới tại vùng biển Đông. 2/ Động thái chính trị của Tổng thống Mã Anh Cửu, thuộc Quốc Dân Đảng, nhằm vào việc bầu cử Tổng thống và Quốc hội vào tháng 2 năm 2012 sắp tới.
1/ Sơ lược lịch sử : Đối với quần đảo Trường Sa, chưa bao giờ Trung Quốc bày tỏ yêu sách trong suốt thời kỳ Việt Nam thuộc Pháp. Ngày 23-9-1930 Pháp ra thông báo cho các nước biết việc Pháp chiếm hữu quần đảo Trường Sa. Trung Quốc không có phản ứng gì về tuyên bố chủ quyền này của Pháp. Ngày 21 tháng 12 năm 1930 một nghị định sát nhập các đảo thuộc Trường Sa vào tỉnh Bà Rịa.
Lý do chính mà phía Đài Loan đưa ra nhằm chứng minh chủ quyền của Đài Loan tại Trường Sa là do yếu tố lịch sử : người Nhật đã chiếm quần đảo Trường Sa và sát nhập các đảo này vào Đài Loan. Sau khi Nhật thất trận 1945 phải trả lại các vùng lãnh thổ mà họ chiếm trước chiến tranh, do yếu tố liên tục quốc gia, các đảo Trường Sa thuộc về Đài Loan. Nhưng việc chiếm đóng của Nhật ngày 31 tháng 3 năm 1939 thì không hợp lệ, ngày 4-4 Pháp đưa ra phản đối. Nhật đã chiếm một lãnh thổ từ lâu đã có chủ. Từ thời điểm đó, Nhật đã cho một số quân gốc Đài Loan đến giữ đảo.
Sau Thế chiến thứ II, Nhật bại trận, số phận các vùng lãnh thổ do Nhật chiếm trước đó được xác định qua Hòa ước San Francisco 1951. Về các điều khoản liên hệ đến lãnh thổ của Hòa ước San Francisco (điều 2), Nhật phải từ bỏ mọi đòi hỏi chủ quyền tại: (a) Triều Tiên, và công nhận nền độc lập của xứ này, (b) đảo Đài Loan và quần đảo Bành Hồ, (c) quần đảo Kouriles và phần đảo Sakhaline cũng như các đảo khác đã nhượng cho Nhật qua Hiệp ước Portsmouth năm 1905, (d) tại các đảo đã được giao cho Hội Quốc Liên quản lý và theo quyết định của Hội đồng Bảo an ngày 2 tháng 4 năm 1947, e/ vùng Bắc cực, (f) các quần đảo Spratly (Trường Sa) và quần đảo Paracels (Hoàng Sa).
Như thế, ngoại trừ Triều Tiên và các đảo đã được Hội Quốc Liên quản lý trước đó đã được xác định rõ số phận, các đảo Đài Loan và quần đảo Bành Hồ, quần đảo Kouriles và phần đảo Sakhaline, vùng Bắc cực và các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa thì không xác định là sẽ giao cho nước nào quản lý.
Một số giải pháp về số phận các vùng đất nói trên được đề nghị tại hội nghị như sau:
(a) Các vùng đất đó thuộc quyền quản lý của tất cả các nước có tuyên bố chiến tranh với Nhật, tức hình thức "cộng đồng quản lý" (condominium). Việc chuyển nhượng chủ quyền trên thực tế đã được thực hiện trong lúc Nhật ký kết Tuyên bố Potsdam đầu hàng vô điều kiện. (Phía Pháp có hai lập trường. Lập trường thứ nhất chia sẻ đề nghị này. Lập trường thứ hai là đề nghị (c) phía dưới).
(b) Các vùng đất này thuộc quyền quản lý của các nước ký kết vào Hòa ước. Đề nghị này bị Liên Xô chống đối; Ấn Độ và hai nước Trung Hoa thì đòi hỏi "cộng đồng quản lý" trên những vùng lãnh thổ của Nhật.
(c) Các vùng đất này trở thành đất vô chủ (terrae derelictae).
(d) Các vùng đất này trở thành đất vô chủ, người ta có thể chiếm hữu. Điều này hàm ý, những nước tham chiến đang chiếm đóng tạm thời tại các vùng lãnh thổ đó có thể chiếm đóng vĩnh viễn và tuyên bố chủ quyền.
Rốt cục đề nghị (d), là đề nghị của phái đoàn Pháp, đã được mặc nhiên chấp thuận. Tức là phe lâm trận nào chiếm ở đâu thì sẽ tuyên bố chủ quyền ở đó.
Do đã toan tính trước, Pháp liền ký kết với Trung Hoa Hiệp ước Trùng Khánh (Tchong Quing) ngày 28 tháng 2 năm 1946. Theo đó quân đội Trung Hoa sẽ rời Việt Nam từ ngày 1 đến ngày 15 tháng 3 năm 1946 để quân Pháp vào thay thế. Đổi lại, Pháp tuyên bố hủy bỏ tất cả các quyền lợi và tô giới của Pháp tại Trung Hoa đồng thời cam kết dành sự ưu đãi về kinh tế cho Trung Hoa, như nhượng tuyến đường xe lửa Vân Nam – Hải Phòng, dành ưu đãi về kinh tế, kiều dân Trung Hoa sống tại Việt Nam được hưởng qui chế ưu đãi đặc biệt.
Trong khi đó, phía nam vĩ tuyến 16, vì lý do chiến lược, Anh cũng đồng ý nhượng quyền lại cho Pháp.
Theo hiệp ước đã ký với Trung Quốc và thỏa thuận với Anh, sau khi quân Nhật đã rút khỏi quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa năm 1946, Pháp đã gởi quân đến các đảo này để khẳng định chủ quyền. Tại Hoàng Sa và Trường Sa, quân đội Pháp-Việt đã có mặt từ tháng 5 năm 1946. Đến tháng 10-1946, quân Pháp ra đảo Ba Bình (Itu Aba) thuộc Trường Sa, đóng mốc mới, khẳng định lại chủ quyền.
Mặt khác, tại Hội nghị San Francisco, đại diện Quốc gia Việt Nam là ông Trần Văn Hữu, đã tuyên bố chủ quyền của Việt Nam tại hai quần đảo này và không bị một sự chống đối nào. Việt Nam tham gia hội nghị với tư cách một nước độc lập, có tuyên chiến với Nhật, do đó có tư cách pháp nhân để đưa ra ý kiến của mình về số phận các vùng đất mà Nhật Bản đã buộc bị từ bỏ. Việt Nam đã ký kết Hòa ước, Nhật Bản cam kết bồi thường cho Việt Nam 39 triệu đô la tương đương giá trị hàng hóa và công trình xây dựng. Nếu việc bồi thường đã chấp thuận thì việc tuyên bố của Việt Nam về chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa đương nhiên là có giá trị pháp lý. Nhưng vấn đề là lúc đó Việt Nam không có khả năng tiếp thu hai quần đảo này từ tay Nhật. Vì thế thái độ của Pháp - mặc dầu chỉ vì quyền lợi của Pháp - vô tình cũng có lợi cho Việt Nam, vì Pháp đại diện cho Việt Nam đã tiếp thu, tuyên bố chủ quyền và chiếm đóng thực sự trên các đảo Hoàng Sa và Trường Sa
Hòa ước San Francisco không có sự hiện diện của hai phe Trung Hoa. Do đó, hội nghị chấp nhận để Nhật có toàn quyền lựa chọn phe để ký hòa ước. Rốt cục Nhật đã chọn phe Trung Hoa Dân quốc để ký hòa ước. Hòa ước Trung-Nhật được ký tại Đài Bắc ngày 28-4-1952, trong đó khoản nói về lãnh thổ được lặp lại nguyên văn nội dung điều (2) của Hòa ước San Francisco: Nhật từ bỏ chủ quyền tại các đảo Đài Loan, Bành Hồ, Hoàng Sa, Trường Sa nhưng không xác định là trả cho phe nào.
Phe Tưởng Giới Thạch sau khi ký Hiệp ước Trùng Khánh với Pháp tháng 3 năm 1946, đồng ý để cho Pháp thay thế mình trong việc giải giới quân Nhật ở các vùng phía bắc vĩ tuyến 16, vài tháng sau mới thấy bị hớ. Do đó họ tìm cách đổ quân lên đảo Phú Lâm thuộc nhóm An Vĩnh của quần đảo Hoàng Sa, hy vọng giành lại quần đảo này từ tay Pháp. Nhưng những hành động này, như việc đổ quân chiếm đảo Ba Bình (Itu Aba) thuộc Trường Sa đều trái công pháp quốc tế, vì đây là hành động xâm chiếm một vùng đất đã có chủ quyền.
2/ Ưu tiên chiến lược của Đài Loan : An ninh quốc phòng.
Một điều không thể chối cãi, ưu tiên trên mọi ưu tiên hiện nay của Đài Loan là vấn đề an ninh quốc phòng. Đài Loan còn hiện hữu trên thế giới như là một đảo quốc độc lập hay không là do tương quan lực lượng quốc phòng giữa đảo quốc này với Trung Hoa lục địa. Dưới sự đe dọa thường xuyên và ngày càng nặng nề của lục địa về một khả năng thống nhất bằng vũ lực, an ninh quốc phòng do đó là một ưu tiên cao nhất của mọi cấp lãnh đạo, của mọi khuynh hướng chính trị tại đảo quốc. Từ năm 1996 trở lại đây, sinh hoạt chính trị dân chủ tại Đài Loan có làm thay đổi một số chính sách quốc gia về các lãnh vực quan trọng như việc chấn chỉnh vị thế của Đài Loan trên trường quốc tế hay việc phát triển kinh tế. Tùy theo đảng cầm quyền, Quốc Dân đảng hay đảng Dân Tiến, chính sách ngoại giao hay đường hướng phát triển kinh tế có thể thay đổi, nhưng về quốc phòng, cả hai đảng đều ý thức sự đe dọa của Bắc Kinh, do đó về chiến lược phòng vệ cả hai phe đều hầu như đồng ý ở các điều cơ bản.
Chiến lược quốc phòng hiện nay của Đài Loan có thể hiểu qua « sách trắng » công bố năm 2002. (Từ đó đến nay chưa thấy công bố « sách trắng » nào khác về quốc phòng).
Sau khi bị loại ra khỏi Liên Hiệp Quốc năm 1971 và sau khi chứng kiến kinh nghiệm của miền nam Việt Nam 1975, quan niệm quốc phòng của Đài Loan đặt căn bản trên hai nguyên tắc : « Răn đe hữu hiệu và phòng thủ vững chắc ». Trong đó nhiệm vụ bảo vệ đất nước thuộc về toàn dân « quân dân quốc phòng », tin tưởng vào sức mạnh của chính mình « tự lực tự chủ - zili zizhu ».
Sách trắng quốc phòng năm 2002 ghi lại Luật Quốc Phòng (tháng giêng năm 2000) nội dung như sau : « Quốc phòng là trách nhiệm của toàn dân, mọi phương tiện trực tiếp hay gián tiếp để bảo vệ quốc gia như quân sự, chính trị, kinh tế, tâm lý và khoa học kỹ thuật đều được sử dụng ».
Lịch sử chiến lược quốc phòng của Đài Loan có thể tóm gọn qua 3 giai đoạn nhưng mục đích tựu trung chỉ nhắm vào việc phòng thủ. Giai đoạn đầu, sau khi mất lục địa về phe cộng sản 1949, Tưởng Giới Thạch củng cố lực lượng ở Đài Loan và dựa vào Hoa Kỳ vừa để tự vệ, vừa hy vọng đem quân về lục địa đánh đuổi « cộng phỉ ». Giai đoạn này chiến lược quốc phòng của Đài Loan là « tấn công – phòng ngự ».
Đến thập niên 60 mộng ước « quang phục » ngày một xa vời, chính phủ Trung Hoa Dân Quốc cố gắng giữ “nguyên trạng - statu quo”, tức giữ thẩm quyền của mình trên đảo Đài Loan và các đảo Bành Hồ, Kim Môn, Mã Tổ, Trung Sa và Thái Bình (tức đảo Ba Bình, thuộc Trường Sa của Việt Nam). Chiến lược quốc phòng là « củng cố - phòng ngự ».
Sau khi Hoa Kỳ cắt đứt ngoại giao năm 1979, các căn cứ quân sự của Hoa Kỳ trên đảo lần lượt đóng cửa và mọi kết ước trước đó giữa Hoa Kỳ và Trung Hoa Dân Quốc kể từ lúc này đều trở thành vô giá trị (caduc). Năm 1982 Hoa Kỳ còn ký kết với Trung-Quốc sẽ giảm dần việc bán vũ khí cho Đài Loan. Để sống còn Đài Loan phải phát triển các cơ sở kỹ nghệ quốc phòng cũng như đi tìm các nguồn bán vũ khí mới. Đây là khunh hướng « tự lực tự chủ » của Đài Loan. Trung tâm nghiên cứu khoa học kỹ thuật Trung Sơn (là danh hiệu của Tôn Dật Tiên), xây dựng từ cuối thập niên 60, đã trở thành trung tâm nghiên cứu và sản xuất vũ khí. (Đến năm 2001 số vũ khí sản xuất tại Đài Loan cung cấp cho quân đội chiếm 47,5% ngân sách quốc phòng, tức chiếm 47,2 tỉ nhân dân tệ (ngân sách quốc phòng là 99,6 tỉ NT). Trung tâm Trung Sơn gồm có năm ngành nghiên cứu : hàng không – phi đạn và hỏa tiễn – hệ thống điện tử - khí cụ và hóa chất. Trung tâm sản xuất phi cơ khu trục và các loại chiến hạm do Hoa Kỳ nhượng kỹ thuật. Trung tâm này cũng sản xuất các loại phi đạn và nghiên cứu vũ khí nguyên tử.)
Đến đầu thập niên 90, trước đe dọa mất còn do quyết tâm “thống nhất” của lãnh đạo Bắc Kinh, Đài Loan đưa vào chiến lược quốc phòng quan niệm “dự phòng chiến tranh” nhằm nghiên cứu các khả năng có thể xảy ra chiến tranh. Sách trắng quốc phòng Đài Loan dự phòng 3 trường hợp có thể xảy ra chiến tranh liên quan đến Đài Loan : 1/ Cộng sản từ lục địa xâm lăng Đài Loan. 2/ Việc ly khai, đòi độc lập của các tỉnh trong lục địa (kể cả trường hợp Đài Loan tuyên bố độc lập). 3/ Tranh chấp vùng biển Đông. Cả ba trường hợp này sẽ kéo nhiều nước trong vùng Đông và Đông Nam châu Á vào cuộc chiến.
Ngân sách quốc phòng của Đài Loan năm 2002 là 261,9 tỉ Yuan (Nguyên hay đô la Đài Loan), theo thời giá lúc đó tương đương 8 tỉ đô la. Mặc dầu tình hình giữa hai bờ eo biển Formose ngày một căng thẳng nhưng ngân sách quốc phòng của Đài Loan lại giảm theo thời gian. Từ đầu thập niên 90 quốc hội dân chủ Đài Loan có nhiều thẩm quyền hơn, các vấn đề « an sinh xã hội » được đặt ưu tiên, vả lại kinh tế không được khởi sắc cho nên ngân sách quốc phòng bị cắt bớt. Ngân sách này, theo tỉ lệ % PIB, ngày một giảm. Năm 1985 ngân sách này chiếm 7,7% PIB (53% ngân sách quốc gia), năm 1990 chỉ còn 5,8% PIB (35% ngân sách quốc gia) tương đương 228,8 tỉ nguyên. Năm 2002 chỉ còn có 2,6% PIB (17% ngân sách quốc gia) tương đương 261,9 tỉ nguyên (8 tỉ $US). Ngân sách quốc phòng năm 2010 là khoảng 2,6% PIB. Nhưng chi phí cho nhân sự của bộ Quốc Phòng rất lớn, năm 2000 chiếm đến 43%, năm 2003 chiếm 47% ngân sách quốc phòng (do nguyên nhân tiền lương và hưu bỗng). Con số này những năm sau này càng lớn hơn trước. Việc này ảnh hưởng rất lớn đến chương trình hiện đại hóa quân đội cũng như việc củng cố hải quân và không quân bảo vệ đảo quốc. Hiện nay Tổng Thống Mã Anh Cửu có chủ trương « chuyên nghiệp hóa » quân đội, dự định giảm thiểu quân lực để giảm bớt chi phí về nhân sự, nhưng việc này chưa thấy thành công.
Như thế khuynh hướng tài giảm quốc phòng là xu hướng từ đầu thập niên 90 cho đến năm 2000. Từ năm 2000 đến năm 2010 chi phí không thay đổi, vào khoảng 2,6% PIB.
Về chi phí quân sự cho đảo Ba Bình có thể chia làm hai thời kỳ : thời kỳ 2000 đến 2008 và từ 2008 đến nay. Thời kỳ 2000 đến 2008, Tổng Thống Trần Thủy Biển thuộc đảng đảng Dân Tiến, vì có chủ trương « Đài Loan độc lập » do đó có những động thái cụ thể nhằm củng cố quốc phòng tại các đảo Trung Sa và Thái Bình (Ba Bình). Việc cho xây dựng phi đạo dài 1.150m tại Ba Bình là một đầu tư quan trọng về chiến lược. Song song với việc này, một kế hoạch của đảng Dân Tiến, cho đến năm 2017, sẽ nâng con số tàu chiến tuần duyên (bảo vệ Ba Bình lên) 173 chiếc, trong đó có hai tuần dương hạm 3.000 tấn, với ngân sách là 28 tỉ NT, nhưng kế hoạch này đã bị chính phủ Mã Anh Cửu thuộc Quốc Dân Đảng bãi bỏ.
Trong khi đó, Quốc Dân đảng, do có khuynh hướng thống nhất với lục địa, cho nên lơ là chuyện phòng thủ. Những động thái gần đây của Đài Loan tại đảo Ba Bình phần nhiều mang âm hưởng chính trị, nhắm vào cuộc bầu cử sắp tới, hơn là toan tính chiến lược. Năm 2009 có đến 500 vụ « chạm trán » giữa tàu của Trung Quốc với tàu của Đài Loan tại vùng biển thuộc đảo Thái Bình (trong vòng 6 hải lý). Ngày 2 tháng 7 năm 2009, một tàu khảo sát cùng với 3 tàu hộ vệ của Trung Quốc đã ép một tàu cá của Đài Loan phải rời khỏi khu vực biển thuộc đảo Ba Bình. Đài Loan đã không phản đối gì về việc này. Theo một đại biểu thuộc đảng Dân Tiến cho biết, lý do im lặng của lực lượng bảo vệ bờ biển trên đảo Ba Bình, là vì họ không muốn làm ảnh hưởng đến quan hệ tốt đẹp giữa Trung Quốc và chính phủ Mã Anh Cửu. Môt khám phá khác, quân đội phòng thủ trên đảo Trung Sa không còn viên đạn đại bác nào trong vòng một thời gian dài vào năm 2010. Việc này cũng do một dân biểu đảng Dân Tiến tố giác. Từ khi nắm quyền đến nay TT Mã Anh Cửu chưa thấy có động tác cụ thể nào cos lợi lâu dài về chiến lược tại đảo Ba Bình.
Do đó, các động thái vừa rồi của Đài Loan liên quan đến các đảo Trung Sa, Ba Bình, phần nhiều do động lực chính trị của nhân sự các đảng cầm quyền nhằm khai thác khối cử tri có khuynh hướng độc lập, hơn là tuân theo một chiến lược quốc phòng hữu hiệu.
Về giả thuyết các yếu tố có thể lôi kéo Đài Loan vào chiến tranh đã ghi ở trên, giả thuyết thứ ba sẽ có thể xảy ra nếu trữ lượng dầu khí vùng Biển Đông được xác định là to lớn. Hiện nay giả thuyết thứ 3 có nhiều sác xuất sẽ xảy ra hơn cả.
Việc tranh chấp chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa ngày càng gay gắt do khuynh hướng bá quyền cũng như sự lớn mạnh về kinh tế và quân sự của Trung Quốc. Để tranh dành tài nguyên, Bắc Kinh có thể gây chiến tranh bất cứ lúc nào với các nước có tranh chấp trong vùng, nhất là Việt Nam và Phi Luật Tân. Việc phát động chiến tranh sẽ lôi kéo nhiều nước trong vùng vào cuộc chiến, mà phần nhiều xác suất sẽ có mặt của Hoa Kỳ, do đó Trung Quốc không muốn đụng độ vì nguy cơ thất bại. Bài toán của Trung Quốc do đó là làm thế nào để khai thác năng lượng ở các vùng biển thuộc Trường Sa mà không khơi mào chiến tranh ? Vừa qua, đầu tháng 3 năm 2011, Trung Quốc cho tàu chiến uy hiếp tàu thăm dò của Phi Luật Tân đang hoạt động trong vùng biển thuộc bãi Cỏ Rong, cách bờ Palawan khoảng 200km. Trung Quốc cũng đã làm nhiều lần tương tự như thế với Việt Nam từ năm 1995 ở vùng Tứ Chính – Vũng Mây, hay làm áp lực với các công ty khái thác Exxon-Mobil và BP phải hủy bỏ hợp đồng khai thác với VN, năm 2008, mặc dầu các lô ở đây thuộc bồng trũng nam Côn Sơn, chỉ cách bờ biển VN có khoảng 250km. Phải chăng TQ đã tự tin vào sức mạnh quân sự của họ, nhất là tháng 11 tới, chiếc hàng không mẫu hạm (Thi Lang) sẽ đưa vào hoạt động ở vùng biển Đông ? (Điều cần nhắc nhở Thi Lang là tên của một vị đô đốc hải quân tài ba đã giúp nhà Thanh tiêu diệt được tàn quân của Trịnh Thành Công tại Đài Loan và thâu hồi đảo này vào đế quốc Trung Hoa. Việc đặt tên cho chiếc tàu như thế là có tính toán mà mục tiêu nhắm vào Đài Loan.)
Tuy nhiên người ta không loại trừ một khả năng khác, Trung Quốc sẽ « có phần » của họ tại vùng biển Trường Sa mà không gây chiến tranh lớn lao. Đó là trường hợp TQ chiếm đảo Ba Bình hiện nay do Đài Loan chiếm đóng. Việc này có thể thành công nếu có sự thỏa thuận ngầm giữa Trung Quốc và Việt Nam, mà điều này có thể thành hiện thực nếu TQ nhượng bộ phần nào cho VN ở vấn đề Hoàng Sa. Giả thuyết này sẽ có lợi cho Trung Quốc. Với quyền chủ quyền tại Ba Bình, TQ có thể đòi hỏi một vùng biển ZEE khá quan trọng, vì đây là đảo lớn nhất Trường Sa. Trong khi Đài Loan với tư cách là một đảo quốc không được nước nào công nhận, các đòi hỏi của Đài Loan về vùng biển chung quanh thì không thuyết phục, mặc dầu họ chiếm hữu thực sự đảo Ba Bình. Vì Đài Loan chỉ được xem như là một phần của lục địa. Những vùng lãnh thổ của Đài Loan sẽ dễ dàng được các nước khác chấp nhận thuộc Trung Quốc.
Sự lo ngại của Đài Loan do đó là có căn cứ, nếu tuyên bố của TT Nguyễn Tấn Dũng về một « thỏa thuận » đã được ký kết giữa VN và TQ, theo như nguồn tin của chính phủ Đài Loan công bố, là có thật. Đài Loan hiện nay kiểm soát các đảo Kim Môn, Mã Tổ, các đảo Bành Hồ, Wuchiu, Trung Sa (Pratas) và Thái Bình (tức đảo Ba Bình). Các đảo Kim Môn đối diện Hạ Môn, cách bờ lục địa chỉ vài hải lý. Các đảo Mã Tổ đối diện hải cảng Phúc Châu, chỉ cách bờ biển lục địa cũng chỉ có vài hải lý. Trong quá khứ, quân Tưởng Giới Thạch đã từng đụng độ nẩy lửa với giải phóng quân của Mao Trạch Đông tại các đảo Kim Môn và Mã Tổ, lần thứ nhất vào tháng 10 năm 1949, lần hai vào tháng 8 năm 1954 đến tháng 4 năm 1955 và lần ba vào tháng 8 năm 1958. Mỗi lần như thế hai bên dàn vài chục ngàn quân để chiến đấu. Cả ba lần quân họ Tưởng, dưới sự ủng hộ của Hoa Kỳ, đã đẩy lui được quân Trung Hoa lục địa. Quan hệ hiện nay giữa Đài Loan và Hoa Kỳ được nối kết qua hiệp ước « Taiwan Relation Act », theo đó Hoa Kỳ có thể bảo vệ và cung cấp vũ khí cho Đài Loan nếu đảo bị tấn công. Nhưng nội dung kết ước không có bảo đảm an ninh cho các đảo ở xa. Nếu Trung Quốc tấn công Ba Bình với lý do « thống nhất đất nước », có thể Hoa Kỳ sẽ đứng ngoài.
3/ Yếu tố chính trị : Trong lúc nhà nước Đài Loan (thuộc phe Quốc Dân đảng) ra tuyên bố và có một số động thái liên quan đến biển Đông, thì tại đảo quốc đang khai mào cho cuộc tranh cử tổng thống và quốc hội vào tháng 2 năm tới. Kỳ này bầu cử quốc hội và tổng thống sẽ được tổ chức cùng ngày. Hiện nay các ứng cử viên tổng thống của hai đảng Dân Tiến và Quốc Dân Đảng đang trong thời điểm vận động nội bộ để được đảng đề cử. Đảng Dân Tiến có 3 ứng cử viên trong khi phe Quốc Dân Đảng có đến 40 ứng cử viên. Các ứng cử viên thuộc đảng Dân Tiến vừa qua có tranh luận trước công chúng (qua màn truyền hình) về các chương trình của họ (sẽ áp dụng nếu đắc cử). Các cuộc thăm dò sau khi cuộc tranh luận cho thấy hai ứng cử viên có khuynh hướng « độc lập », người thứ nhứt chủ trương « Đài Loan là một con rồng trong biển xanh thay vì là một con cua bám vào sườn của Trung Quốc », người thứ hai chủ trương Đài Loan không nên phụ thuộc về kinh tế đối với Trung Quốc, được nhiều sự ủng hộ của quần chúng. Tỉ số dân chúng ủng hộ cho hai ứng cử viên này lên trên 90%. Trong khi ứng cử viên còn lại có khuynh hướng cộng tác về kinh tế với TQ thì tỉ số ủng hộ của quần chúng rất thấp. Nhưng qua các cuộc thăm dò này phe Quốc Dân đảng đã nắm được khuynh hướng chung của dân chúng hiện nay, đó là bớt phụ thuộc về kinh tế đối với Trung Quốc. Nhưng hậu quả của hiệp ước về kinh tế do chính phủ Mã Anh Cửu đã ký kết với Bắc Kinh hồi năm ngoái cho thấy sự lệ thuộc của Đài Loan vào Trung Quốc đã vượt mức báo động. Trong chừng mực, các động thái của Đài Loan đều bị Trung Quốc chi phối, kể cả vấn đề sinh tử là an ninh, quốc phòng.
Như thế, phản ứng của nhà nước Đài Loan về HS và TS vừa qua đã ảnh hưởng nặng nề âm hưởng chính trị, hơn là một quyết định chiến lược. Do đó, tính trung thực của bản tin cho rằng TT Nguyễn Tấn Dũng ký kết với TQ một thỏa thuận cơ bản về việc giải quyết tranh chấp biển Đông có thể thiếu trung thực. Vấn đề là hiện nay ai có khả năng, hay thẩm quyền, xác định là có hay không, thỏa thuận này ?
Cũng nên nhắc lại, Đài Loan từ năm 2000 đến 2010, tổng thống là ông Trần Thủy Biển, thuộc phe Dân Tiến. Đảng Dân Tiến thắng Quốc Dân Đảng liên tục hai nhiệm kỳ. Trong hai nhiệm kỳ này, về mọi mặt không có gì phải chê trách người lãnh đạo.
Trong khu vực, thời điểm thập niên 2000, ngoại trừ Trung Quốc, tăng trưởng kinh tế của Đài Loan tương đương với Hàn Quốc, từ 4 đến 6 % cho những năm qua, trong khi Nhật Bản chỉ tăng trưởng từ 1% đến 2%/ năm.
Tăng trưởng GDP năm 2007 của Đài Loan là 5,7%. Chỉ số thất nghiệp là 3,94% (tháng 3 năm 2008). Chỉ số thất nghiệp năm 2000, vào năm đảng DPP lên nắm quyền là dưới 3%. Trong 8 năm do đảng DPP cầm quyền, thất nghiệp chỉ tăng 1% là con số xem ra rất nhỏ so với các nước tiên tiến trên thế giới cùng thời gian này trước hấp lực mạnh của Trung Quốc về công nhân giá rẻ. Đài Loan ít bị ảnh hưởng về việc này so với các nước Âu-Mỹ, mặc dầu các xí nghiệp cần nhiều công thợ tại đây lần lượt đóng của để đầu tư sang Trung Quốc. Mức độ lạm phát của Đài Loan cũng tương đối thấp, tương tự Đại Hàn, đầu năm 2008 khoảng 3%, trong khi Trung Quốc chỉ số này lên đến hơn 8%.
Một nhà cầm quyền tài giỏi khác cũng khó có thể làm khá hơn ê kíp Trần Thủy Biển. Lý do chính đem lại thất cử của ứng cử viên Tạ Đình Trường thuộc đảng Dân Tiến là sự nhàm chán của người dân đối với đảng cầm quyền.
Phe Quốc Dân đảng, lúc đưa Mã Anh Cửu ra tranh cử, khẩu hiệu của phe này là chấn hưng kinh tế ; việc này phục vụ cho ba đối tượng : 1/ người dân, 2/ phát triển cơ sở hạ tầng và phát triển công nghiệp 3/ đưa Đài Loan ra thế giới.
Nhưng sau khi thắng cử, chính sách « chấn hưng kinh tế » của họ Mã cho thấy có nhiều điều không thể thực hiện được. Đây là một khẩu hiệu thuần túy kinh tế. Mức độ phát triển kinh tế hàng năm của Đài Loan dưới thời Trần Thủy Biển vào khoảng 5%, là con số tương đối cao cho vùng Đông Á. Phát triển kinh tế của Đài Loan vào năm 2009, hai năm dưới sự lãnh đạo của Mã Anh Cửu, chỉ đạt vào khoảng 2,5%, ở dưới mức rất xa con số « qui chiếu » 5% của ê-kíp Trần Thủy Biển. Năm 2006 kim ngạch mậu dịch hai bên bờ eo biển Formosa đạt được 107,8 tỉ đô la, lục địa nhập siêu 66,4 tỉ. Năm 2007 khuynh hướng này giảm, 8 tháng đầu năm số nhập siêu của lục địa là 33,5 tỉ.
Trong khi đó, việc « đưa Đài Loan ra thế giới » cũng không có kết quả thuyết phục, ngoại trừ việc Đài Loan được đặt đại diện tại OMS (Tổ chức Y tế thế giới, thuộc LHQ), nhờ việc TQ không chống đối. Ông Trần Thủy Biển đã thất bại trong việc vận động cho Đài Loan gia nhập các định chế quốc tế, mặc dầu Đài Loan – như những quốc gia khác - có những vấn đề cũng như khả năng đóng góp cho các tổ chức, như OMS. Mã Anh Cửu đã thành công (ở điểm Trần Thủy Biển thất bại) vì Quốc Dân Đảng và đảng Cộng Sản Trung Quốc có cùng một quan điểm « một nước Trung Hoa ». Trong khi phe Dân Tiến có chủ trương động lập. Do đó, phe lục địa vì vậy có khuynh hướng ủng hộ các ứng cử viên thuộc Quốc Dân Đảng.
Lo ngại sẽ thất cử ở các cuộc bầu cử về quốc hội và tổng thống kỳ tới, do việc không thực hiện được các cam kết với người dân, do đó chính phủ Mã Anh Cửu quyết định ký hiệp ước thuơng mãi với lục địa. Kết quả việc này làm cho kinh tế Đài loan tăng trưởng 10% trong năm 2010. Nhưng việc tăng trưởng này Đài Loan sẽ phải trả giá rất đắt, vì tình trạng lệ thuộc vào lục địa đã vượt qa mọi mức báo động.
Các cuộc thăm dò sau buổi tranh luận về chương trình hành động của các ứng cử viên Dân Tiến cho thấy khuynh hướng của người dân tại đảo. Vì thế, có lẽ động thái khá ồn ào vừa qua của chính phủ Mã Anh Cửu về việc HS và TS, chỉ là một « thủ thuật chính trị » nhằm vào việc lấy phiếu.
Một chi tiết quan trọng khác trong cuộc thăm dò sau buổi tranh luận giữa các ứng cử viên Dân Tiến. Việc này cho thấy khuynh hướng « độc lập » của dân Đài Loan không giảm, mặc dầu nhiều năm qua Đài Loan và lục địa đã có những thông thuơng ngoài kinh tế khá chặt chẽ. Tình trạng đàn áp dã man những tiếng nói đối lập hay tình trạng xã hội bất ổn của lục địa đã khiến dân Đài Loan muốn đi « con đường riêng » của mình. Nhưng thực hiện việc này sẽ rất nhiêu khê, khiến dân Đài Loan trả giá đắt về phát triển kinh tế, chưa nói việc phải đương đầu với lục địa về quân sự (do luật chống ly khai của TQ).
Cuộc bầu cử tổng thống Đài Loan năm 2008 có kèm theo cuộc « trưng cầu dân ý ». Trưng cầu dân ý có hai đề nghị chính (national proposal số 5 và số 6) được hai đảng QDD và DPP đưa ra, đó là : đề nghị 5/ mong muốn vào Liên Hiệp Quốc dưới tên mới là Đài Loan và đề nghị 6/ mong muốn trở lại Liên Hiệp Quốc dưới tên cũ là Cộng Hòa Dân Quốc (République de Chine) với tên gọi là Đài Loan. Kết quả đề nghị 5 được 5,53 triệu phiếu và đề nghị 6 được 4,96 triệu phiếu. Cả hai kết quả này đều đã không đạt được mức ấn định 50% số phiếu (8,66 triệu phiếu) nên bị loại. Nhưng để ý, cả hai đề nghị này thực ra có chung một nội dung : xin vào Liên Hiệp Quốc. Sự khác biệt của hai phe QDD và DPP là cái nhìn chiến lược. Như thế kết quả của cuộc trưng cầu dân ý cho thấy có khoảng 80% dân Đài Loan chủ trương đảo quốc này gia nhập Liên Hiệp Quốc.
Khuynh hướng này đến nay tăng lên 90%, nếu đồng nhất ý muốn « Đài Loan gia nhập LHQ » năm 2008 với ý muốn « Đài Loan là con rồng thay trong biển xanh vì là con cua bám sườn Trung Quốc » hay « Đài Loan bớt lệ thuộc kinh tế với lục địa ».
Do đó, để không bị thất cử, ở quốc hội và giữ được ghế tổng thống, phe Quốc Dân Đảng cần có những điều chỉnh « chiến lược » về các vấn đề liên quan đến lục địa. Vấn đề này hiện nay là gì nếu không phải là vấn đề tranh chấp biển Đông ? Nhưng sự lơ là của phe Quốc Dân Đảng từ nhiều năm qua, một mặt về ngoại giao do không thuyết phục được các nước tranh chấp khác để Đài Loan được xem như là một đối tác bình đẳng, mặt khác về an ninh quốc phòng do việc quá thân cận với Bắc Kinh, vấn đề phòng thủ không còn là ưu tiên ở các đảo Ba Bình hay Trung Sa. Các việc này không chỉ khiến Quốc Dân đảng trả giá đắt trong kỳ bầu cử tới, mà có thể làm cho Đài Loan mất quyền kiểm soát tại các đảo này.
4/ Kết luận : Cho dầu là động thái của chính phủ Mã Anh Cửu bất kỳ là gì, do ảnh hưởng chính trị hay do toan tính chiến lược dài hạn, vấn đề Đài Loan đối với Việt Nam không phải là một việc hệ trọng, như là « vấn đề » Trung Quốc. Hiện nay một cách rõ rệt, VN đang đu dây giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc với món hàng trao đổi là việc « hợp tác quân sự ». VN hy vọng TQ nhượng bộ trên vấn đề tranh chấp HS và TS. Việc VN « nghiêng » về phía TQ như hiện nay cũng có thể là do hệ quả của các cuộc cách mạng dân chủ ở các xứ Bắc Phi và Ả Rập. VN ra tay đàn áp, bắt bớ những người bất đồng chính kiến với một mức độ hung bạo và ngang ngược, khiến Hoa Kỳ và Châu Âu lên tiếng chỉ trích. VN có thể sẽ hợp tác sâu đậm hơn với TQ về vấn đề an ninh và quốc phòng, nhằm mục đích tìm sự ủng hộ cho chế độ. Điều này cũng răn đe Hoa Kỳ không được chỉ trích thái quá, khiến VN ngả vào tay TQ, là điều mà HK không muốn thấy.
Nhưng những toan tính này chỉ có tính cách giai đoạn, gà quà ăn quẩn, chỉ nhằm cứu đảng CSVN trong cơn khủng hoảng mới, chứ không là một giải pháp dài hạn, chiến lược, có lợi ích cho dân tộc và đất nước VN. Nhưng hậu quả sẽ rất khủng khiếp, nếu VN ngả về phía TQ. Một sự sụp đổ hay khủng hoảng chính trị ở TQ sẽ đưa đến sụp đổ toàn diện ở VN, việc này có thể đưa VN về thời kỳ bán khai, man rợ. Trong khi đi với HK, với những tính toán dài hạn, về kinh tế cũng như an ninh quốc phòng, VN có thể bảo vệ chủ quyền của mình ở các đảo HS và TS vừa phát triển đất nước. Nhưng việc « đi » với HK đòi hỏi VN phải dân chủ hóa chế độ. Việc này có thể giới hạn bớt quyền lực của đảng CSVN. Nhưng nó không đem lại các hệ quả sụp đổ toàn chế độ như việc ngả về TQ.
Trương Nhân Tuấn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét