Tổng Hợp Tin Tức ngày 29-6-2011 – Trích Diễn Đàn Paltalk VietnamExodus
Cuộc hôn nhân Mỹ/Tàu, không biết từ bao giờ, được đặt tên là “Chimerica”, và đánh giá là “hôn nhân do tính toán lợi hại” – marriage of convenience. Mụ “đàn bà mất nết” họ Mao, vì tính toán lợi hại, đã ngoại tình với “kẻ lạ” nhà giàu, phản chồng Nga, “đi đêm” với Mỹ, tụng niệm bùa chú “làm giàu là vinh quang”. Từ đó, lằn ranh Mỹ “be bờ” đế quốc Liên Xô không còn nằm ở Đông Nam Á với vĩ tuyến 17 của VN nữa, mà đưa lên phía Bắc nước Tàu, và VNCH bị “hy sinh”. Khi “Tổ quốc XHCN” của cộng sản, vì cái gọi là “đặc thù Trung Quốc” mà vỡ ra, thì lũ “chó con” chư hầu cộng sản bị khủng hoảng hàng ngũ “ta-bạn-thù”, nhưng đồng thời cũng có cơ hội “thoát thân” khỏi kiếp tôi đòi, nếu “không lú lẫn”, kịp nhận ra thân phận mình, tìm được đường về “độc lập tự chủ”. Nhiều nước cựu thuộc địa của Liên Xô ở Đông Âu và Trung Á đã “thoát thân” qua “cách mạng màu” hay “cách mạng hoa”, và phục hồi nhiều hay ít, mau hay chậm, tùy mức độ lệ thuộc trước đó, hoặc trình độ văn hoá của từng nước. Riêng Việt Nam, dưới “độc quyền cầm chịch” của đảng cộng sản, trước, trong và sau khi đế quốc cộng sản vỡ ra, vào lúc trật tự “ta-bạn-thù” bị rối loạn vì Tàu phản Nga theo Mỹ, đã có ít nhất hai lần “chạy quanh”, với hai “chọn lựa lú lẫn chết người”.
Rất sớm, ngay từ năm 1950, theo chân Mao sang Moscow cầu viện, bị Stalin – vì sợ “lộ tẩy” với Mỹ và đồng minh – từ chối, đùn cho Mao “cõng”, già Hồ có lẽ đã “ngửi” thấy nguy cơ “mất đoàn kết” trên chóp bu “Tổ Quốc XHCN” của hắn, nên ngay sau đó về nước đã đưa câu tụng niệm bùa chú, đại khái là “phải giữ đoàn kết tình nghĩa quốc tế vô sản như giữ con ngươi mắt mình”. Tiếc thay, người ta có đến hai con mắt; khi mà “mắt nọ chửi bố mắt kia”, thì bùa chú của già Hồ hết thiêng. Năm 1972, Mao “đi đêm” được với Mỹ, thì chiến tranh VN phải mau kết thúc để Mỹ đem được tù binh về, bất chấp “hội chứng VN”. Năm 1973, ký Hiệp Định Paris, được trao giải Nobel Hòa Bình, tại sao Lê Đức Thọ từ chối lãnh giải, và – theo báo chí ghi nhận – khi từ Hà Nội sang Paris để ký, y đã “vừa đi vừa khóc” ? Thái độ của Lê Đức Thọ như thế, cho phép ta suy diễn ra hai điều : 1/ Y khóc là khóc cho “tình nghĩa quốc tế vô sản anh em” giữa Nga và Tàu, đã tỏ ra “đứt đuôi con nòng nọc” qua những “cò kè đánh đánh đàm đàm”, trong và ngoài đàm phán Paris, mà y cho là nguy cơ “nổ con ngươi” đã hiện thực, bùa chú “chó con” của HCM “không thiêng”; 2/ Y từ khước lãnh giải Hòa Bình, là đã rắp tâm phá hoại hòa bình ngay sau đó. (Henry Kissinger, người chia đôi giải Nobel với Thọ, đã nhận giải, nhưng trong thư cho Ủy Ban Nobel đã nói là “nhận giải với sượng sùng” – with humility). Ngày 30-4-1975, VGCS đã chiếm trọn Miền Nam VN, bất chấp Hiệp Định Paris, dẹp bỏ “Chính Phủ” của “Giải Phóng” Miền Nam, hoàn toàn trái ý cả Mỹ lẫn Tàu, nhưng lại hợp ý Liên Xô. Đó là chọn lựa “chết người” thứ nhất của VGCS khi “chạy quanh” trong “mê hồn trận ta-bạn-thù” của tam giác Washington-Beijing-Moscow. Chọn lựa này, nhất thời đưa đế quốc Liên Xô cùng với “chó con” của nó là VGCS lên “đỉnh cao” của “ba dòng thác cách mạng” (như Lê Duẩn từng huênh hoang). Nhưng chọn lựa này trở nên “chết người”, khi đế quốc Liên Xô sụp đổ, VGCS trở thành “chó mất chủ”, bơ vơ “chạy quanh lần thứ hai”, mong tìm chủ mới.
Năm 1990, khi LX sụp đổ, các nước Đông Âu và Trung Á (SGN) có cơ hội lấy lại độc lập , tự chủ, đã không bỏ lỡ cơ hội ấy, vươn lên theo xu thế thời đại, tuy chưa đạt “đỉnh cao” đáng kể nào, nhưng ít ra đã “thoát thân” khỏi kiếp tôi đòi “chó con”. Riêng nước Đức, nhân dịp này đã ”thống nhất không đổ máu” và đang vươn lên hàng cường quốc ở châu Âu. Đảng cộng sản VN thì sao ? Từ bẩm sinh, thân phận của nó là “công cụ bành trướng” của cái gọi là “Tổ Quốc XHCN”; trong “tư duy đảng tính” của nó, sự tồn vong của “Tổ Quốc VN” không nghĩa lý gì trước sự còn hay mất của “đảng chúng nó”. Cho nên, sau khi tam giác Nga-Mỹ-Tàu bị gẫy mất cái góc Nga, chỉ còn lại “hai đầu” Tàu và Mỹ – giữa hai đầu ấy cũng không có sợi giây để nó có thể “đu giây”, vì Mỹ/Tàu lúc đó vẫn còn là “đồng minh chiến lược” – nó lúng túng chạy quanh. Cuối cùng, nó chọn quay về với chủ cũ là Tàu. Chắc hẳn nó đã “đinh ninh” rằng, dù sao, Tàu còn có đảng cộng sản, cùng “mô hình cơ cấu”, cùng “cứu cánh xã hội chủ nghĩa”, cùng tiến trình “dân chủ nhân dân”…, nhất là “cùng lò đào tạo”, từ Diên An qua Hoàng Phố hay Thành Đô. Với bằng ấy thứ “cùng”, có lẽ cộng sản vn thấy “thoải mái” hơn là “thoát thân theo Mỹ”, có thể còn giữ được nước, nhưng “nguy cơ mất đảng” rất cao. Hồi Ký Trần Quang Cơ (một người trong cuộc) tiết lộ rằng, khi sang Thành Đô “bó dáo lai hàng” để được “thuần hóa”, bọn chóp bu VGCS xin được Tàu coi như “hai đảng cộng sản” bình thường hóa quan hệ, nhưng Tàu chỉ muốn coi đó là hai nước tái lập bang giao, vì thực chất là đảng cộng sản vn đã “bán nước để cầu sinh”, qua rất nhiều thỏa thuận chung” với Tàu, cho đến nay VGCS vẫn coi là “bí mật quốc gia”, nhưng lâu lâu Tàu lại nhắc đến, mỗi khi VGCS bị Tàu nghi là có “ý đồ muốn thoát thân”. Lựa chọn “bán nước để giữ đảng” giúp đảng csvn sống thêm được 20 năm, nhưng nó trở thành “lựa chọn chết người” thứ hai, khi Tàu đang là “đối tác” trở thành “đối đầu” với Mỹ. Kiểm điểm lại chuyện cũ, ta nhìn tình hình Biển Đông Nổi Sóng mấy tháng vừa qua dưới ánh sáng của những thông tin mới nhất, rõ nét hơn.
Từ đầu năm 2001, Mỹ đã nhìn thấy hiểm họa “Đại Hán Bành Trướng” ẩn núp sau “Đồng Thuận Bắc Kinh”, bắt đầu định lại khuôn khổ – re-format – cuộc hôn nhân Chimerica, từ đơn thuần tiếp cận – engagement – thành “vừa tiếp cận vừa be bờ” – congagement. Sau 8 năm bị họa khủng bố dẫn dụ sang Afghanistan, rồi Iraq, Mỹ suy yếu, trở thành con nợ của Tàu; hiểm họa Tàu đe dọa Mỹ nặng nề hơn. Cuộc khủng hoảng KTTC toàn cầu những năm 2007-2008 làm cho toàn khối tư bản bị tổn hại nặng trong khi Tàu và chư hầu tổn hại rất nhẹ, gượng lại mau chóng, ra mặt cạnh tranh, đôi khi “đối đầu không nhân nhượng” với Mỹ. Qua năm 2009, với cả Hành Pháp lẫn Lập Pháp Mỹ chuyển từ Cộng Hòa sang Dân Chủ, Mỹ triển khai kế hoạch toàn cầu “đối phó với Tàu”. Các nhà hoạch định bắt đầu nói đến “sự lủng củng của cuộc hôn nhân Chimerica”. Khi nổ ra “cách mạng Hoa Nhài” ở Trung Đông và Bắc Phi, người ta liên tưởng đến “sự phá sản của Đồng Thuận Bắc Kinh”. Trước đó, Mỹ đã công bố chủ trương “trở lại Á Châu Thái Bình Dương” để “cân bằng ảnh hưởng với Trung Quốc” ở vùng này. Thế giằng co Mỹ/Tàu ngay tại Biển Đông, đẩy VGCS vào thế “chóng mặt”. Khi hôn nhân Chimerica êm xuôi, VGCS còn có vai trò “chầu hầu” cả hai bên. Khi hôn nhân ấy lủng củng, VGCS có thể chạy quanh, thỉnh thoảng “quẩn chân”, bị bên này hay bên kia đạp trúng, u đầu sứt tai “là chuyện nhỏ”. Nhưng khi hôn nhân ấy trên đà “phá sản”, chắc chắn VGCS lâm thế “chết chẹt”, không lối thoát. Tình hình Biển Đông Nổi Sóng suốt tháng 6-2011 vừa qua bộc lộ thế kẹt cứng đó. Toa rập với Tàu, đóng kịch “kẻ cắp chợ Đồng Xuân” bịp Mỹ, dụ Mỹ “tương nhượng với Tàu” không được, lòi ra tội “bán nước cho Tàu từ khuya”. Vội vàng “hạ màn”, màn bị kẹt, vì “Tuổi Trẻ VN xuống đường hỏi tội”. Chạy sang Bắc Kinh “quỳ gối tụng kinh” 16 chữ vàng, láng giềng bốn tốt, tội “bán nước giữ đảng” năm xưa lòi thêm ra. Trơ thổ địa, VGCS đang loay hoay “đối phó sảng” với những mầm biến loạn sừng sững mọc lên, do kinh tế phá sản và tham nhũng “hết thuốc chữa”. Chỉ cần bọn con buôn quốc tế – Đội Ngũ Đỏ (The Red Team) ở Mỹ và khắp thế giới – ngưng “đồng lõa với tội ác”, ngày tàn của bọn cộng sản sống sót trái mùa, chẳng những ở VN, mà cả ở châu Á, không còn xa.
Cuộc hôn nhân Mỹ/Tàu, không biết từ bao giờ, được đặt tên là “Chimerica”, và đánh giá là “hôn nhân do tính toán lợi hại” – marriage of convenience. Mụ “đàn bà mất nết” họ Mao, vì tính toán lợi hại, đã ngoại tình với “kẻ lạ” nhà giàu, phản chồng Nga, “đi đêm” với Mỹ, tụng niệm bùa chú “làm giàu là vinh quang”. Từ đó, lằn ranh Mỹ “be bờ” đế quốc Liên Xô không còn nằm ở Đông Nam Á với vĩ tuyến 17 của VN nữa, mà đưa lên phía Bắc nước Tàu, và VNCH bị “hy sinh”. Khi “Tổ quốc XHCN” của cộng sản, vì cái gọi là “đặc thù Trung Quốc” mà vỡ ra, thì lũ “chó con” chư hầu cộng sản bị khủng hoảng hàng ngũ “ta-bạn-thù”, nhưng đồng thời cũng có cơ hội “thoát thân” khỏi kiếp tôi đòi, nếu “không lú lẫn”, kịp nhận ra thân phận mình, tìm được đường về “độc lập tự chủ”. Nhiều nước cựu thuộc địa của Liên Xô ở Đông Âu và Trung Á đã “thoát thân” qua “cách mạng màu” hay “cách mạng hoa”, và phục hồi nhiều hay ít, mau hay chậm, tùy mức độ lệ thuộc trước đó, hoặc trình độ văn hoá của từng nước. Riêng Việt Nam, dưới “độc quyền cầm chịch” của đảng cộng sản, trước, trong và sau khi đế quốc cộng sản vỡ ra, vào lúc trật tự “ta-bạn-thù” bị rối loạn vì Tàu phản Nga theo Mỹ, đã có ít nhất hai lần “chạy quanh”, với hai “chọn lựa lú lẫn chết người”.
Rất sớm, ngay từ năm 1950, theo chân Mao sang Moscow cầu viện, bị Stalin – vì sợ “lộ tẩy” với Mỹ và đồng minh – từ chối, đùn cho Mao “cõng”, già Hồ có lẽ đã “ngửi” thấy nguy cơ “mất đoàn kết” trên chóp bu “Tổ Quốc XHCN” của hắn, nên ngay sau đó về nước đã đưa câu tụng niệm bùa chú, đại khái là “phải giữ đoàn kết tình nghĩa quốc tế vô sản như giữ con ngươi mắt mình”. Tiếc thay, người ta có đến hai con mắt; khi mà “mắt nọ chửi bố mắt kia”, thì bùa chú của già Hồ hết thiêng. Năm 1972, Mao “đi đêm” được với Mỹ, thì chiến tranh VN phải mau kết thúc để Mỹ đem được tù binh về, bất chấp “hội chứng VN”. Năm 1973, ký Hiệp Định Paris, được trao giải Nobel Hòa Bình, tại sao Lê Đức Thọ từ chối lãnh giải, và – theo báo chí ghi nhận – khi từ Hà Nội sang Paris để ký, y đã “vừa đi vừa khóc” ? Thái độ của Lê Đức Thọ như thế, cho phép ta suy diễn ra hai điều : 1/ Y khóc là khóc cho “tình nghĩa quốc tế vô sản anh em” giữa Nga và Tàu, đã tỏ ra “đứt đuôi con nòng nọc” qua những “cò kè đánh đánh đàm đàm”, trong và ngoài đàm phán Paris, mà y cho là nguy cơ “nổ con ngươi” đã hiện thực, bùa chú “chó con” của HCM “không thiêng”; 2/ Y từ khước lãnh giải Hòa Bình, là đã rắp tâm phá hoại hòa bình ngay sau đó. (Henry Kissinger, người chia đôi giải Nobel với Thọ, đã nhận giải, nhưng trong thư cho Ủy Ban Nobel đã nói là “nhận giải với sượng sùng” – with humility). Ngày 30-4-1975, VGCS đã chiếm trọn Miền Nam VN, bất chấp Hiệp Định Paris, dẹp bỏ “Chính Phủ” của “Giải Phóng” Miền Nam, hoàn toàn trái ý cả Mỹ lẫn Tàu, nhưng lại hợp ý Liên Xô. Đó là chọn lựa “chết người” thứ nhất của VGCS khi “chạy quanh” trong “mê hồn trận ta-bạn-thù” của tam giác Washington-Beijing-Moscow. Chọn lựa này, nhất thời đưa đế quốc Liên Xô cùng với “chó con” của nó là VGCS lên “đỉnh cao” của “ba dòng thác cách mạng” (như Lê Duẩn từng huênh hoang). Nhưng chọn lựa này trở nên “chết người”, khi đế quốc Liên Xô sụp đổ, VGCS trở thành “chó mất chủ”, bơ vơ “chạy quanh lần thứ hai”, mong tìm chủ mới.
Năm 1990, khi LX sụp đổ, các nước Đông Âu và Trung Á (SGN) có cơ hội lấy lại độc lập , tự chủ, đã không bỏ lỡ cơ hội ấy, vươn lên theo xu thế thời đại, tuy chưa đạt “đỉnh cao” đáng kể nào, nhưng ít ra đã “thoát thân” khỏi kiếp tôi đòi “chó con”. Riêng nước Đức, nhân dịp này đã ”thống nhất không đổ máu” và đang vươn lên hàng cường quốc ở châu Âu. Đảng cộng sản VN thì sao ? Từ bẩm sinh, thân phận của nó là “công cụ bành trướng” của cái gọi là “Tổ Quốc XHCN”; trong “tư duy đảng tính” của nó, sự tồn vong của “Tổ Quốc VN” không nghĩa lý gì trước sự còn hay mất của “đảng chúng nó”. Cho nên, sau khi tam giác Nga-Mỹ-Tàu bị gẫy mất cái góc Nga, chỉ còn lại “hai đầu” Tàu và Mỹ – giữa hai đầu ấy cũng không có sợi giây để nó có thể “đu giây”, vì Mỹ/Tàu lúc đó vẫn còn là “đồng minh chiến lược” – nó lúng túng chạy quanh. Cuối cùng, nó chọn quay về với chủ cũ là Tàu. Chắc hẳn nó đã “đinh ninh” rằng, dù sao, Tàu còn có đảng cộng sản, cùng “mô hình cơ cấu”, cùng “cứu cánh xã hội chủ nghĩa”, cùng tiến trình “dân chủ nhân dân”…, nhất là “cùng lò đào tạo”, từ Diên An qua Hoàng Phố hay Thành Đô. Với bằng ấy thứ “cùng”, có lẽ cộng sản vn thấy “thoải mái” hơn là “thoát thân theo Mỹ”, có thể còn giữ được nước, nhưng “nguy cơ mất đảng” rất cao. Hồi Ký Trần Quang Cơ (một người trong cuộc) tiết lộ rằng, khi sang Thành Đô “bó dáo lai hàng” để được “thuần hóa”, bọn chóp bu VGCS xin được Tàu coi như “hai đảng cộng sản” bình thường hóa quan hệ, nhưng Tàu chỉ muốn coi đó là hai nước tái lập bang giao, vì thực chất là đảng cộng sản vn đã “bán nước để cầu sinh”, qua rất nhiều thỏa thuận chung” với Tàu, cho đến nay VGCS vẫn coi là “bí mật quốc gia”, nhưng lâu lâu Tàu lại nhắc đến, mỗi khi VGCS bị Tàu nghi là có “ý đồ muốn thoát thân”. Lựa chọn “bán nước để giữ đảng” giúp đảng csvn sống thêm được 20 năm, nhưng nó trở thành “lựa chọn chết người” thứ hai, khi Tàu đang là “đối tác” trở thành “đối đầu” với Mỹ. Kiểm điểm lại chuyện cũ, ta nhìn tình hình Biển Đông Nổi Sóng mấy tháng vừa qua dưới ánh sáng của những thông tin mới nhất, rõ nét hơn.
Từ đầu năm 2001, Mỹ đã nhìn thấy hiểm họa “Đại Hán Bành Trướng” ẩn núp sau “Đồng Thuận Bắc Kinh”, bắt đầu định lại khuôn khổ – re-format – cuộc hôn nhân Chimerica, từ đơn thuần tiếp cận – engagement – thành “vừa tiếp cận vừa be bờ” – congagement. Sau 8 năm bị họa khủng bố dẫn dụ sang Afghanistan, rồi Iraq, Mỹ suy yếu, trở thành con nợ của Tàu; hiểm họa Tàu đe dọa Mỹ nặng nề hơn. Cuộc khủng hoảng KTTC toàn cầu những năm 2007-2008 làm cho toàn khối tư bản bị tổn hại nặng trong khi Tàu và chư hầu tổn hại rất nhẹ, gượng lại mau chóng, ra mặt cạnh tranh, đôi khi “đối đầu không nhân nhượng” với Mỹ. Qua năm 2009, với cả Hành Pháp lẫn Lập Pháp Mỹ chuyển từ Cộng Hòa sang Dân Chủ, Mỹ triển khai kế hoạch toàn cầu “đối phó với Tàu”. Các nhà hoạch định bắt đầu nói đến “sự lủng củng của cuộc hôn nhân Chimerica”. Khi nổ ra “cách mạng Hoa Nhài” ở Trung Đông và Bắc Phi, người ta liên tưởng đến “sự phá sản của Đồng Thuận Bắc Kinh”. Trước đó, Mỹ đã công bố chủ trương “trở lại Á Châu Thái Bình Dương” để “cân bằng ảnh hưởng với Trung Quốc” ở vùng này. Thế giằng co Mỹ/Tàu ngay tại Biển Đông, đẩy VGCS vào thế “chóng mặt”. Khi hôn nhân Chimerica êm xuôi, VGCS còn có vai trò “chầu hầu” cả hai bên. Khi hôn nhân ấy lủng củng, VGCS có thể chạy quanh, thỉnh thoảng “quẩn chân”, bị bên này hay bên kia đạp trúng, u đầu sứt tai “là chuyện nhỏ”. Nhưng khi hôn nhân ấy trên đà “phá sản”, chắc chắn VGCS lâm thế “chết chẹt”, không lối thoát. Tình hình Biển Đông Nổi Sóng suốt tháng 6-2011 vừa qua bộc lộ thế kẹt cứng đó. Toa rập với Tàu, đóng kịch “kẻ cắp chợ Đồng Xuân” bịp Mỹ, dụ Mỹ “tương nhượng với Tàu” không được, lòi ra tội “bán nước cho Tàu từ khuya”. Vội vàng “hạ màn”, màn bị kẹt, vì “Tuổi Trẻ VN xuống đường hỏi tội”. Chạy sang Bắc Kinh “quỳ gối tụng kinh” 16 chữ vàng, láng giềng bốn tốt, tội “bán nước giữ đảng” năm xưa lòi thêm ra. Trơ thổ địa, VGCS đang loay hoay “đối phó sảng” với những mầm biến loạn sừng sững mọc lên, do kinh tế phá sản và tham nhũng “hết thuốc chữa”. Chỉ cần bọn con buôn quốc tế – Đội Ngũ Đỏ (The Red Team) ở Mỹ và khắp thế giới – ngưng “đồng lõa với tội ác”, ngày tàn của bọn cộng sản sống sót trái mùa, chẳng những ở VN, mà cả ở châu Á, không còn xa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét